Việc lồng ghép quyền con người vào giảng dạy môn học Luật Hiến pháp không chỉ giúp sinh viên nắm vững kiến thức pháp lý mà còn hình thành ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi của con người trong bối cảnh pháp lý hiện đại. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của quyền con người và phương pháp tiếp cận quyền con người trong giảng dạy môn Luật Hiến pháp tại Trường đại học Hòa Bình; Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tiếp cận quyền con người trong giảng dạy môn học.

1. Khái quát chung về quyền con người và phương pháp tiếp cận quyền con người trong giảng dạy

a) Khái quát chung về quyền con người

Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử nhân loại. Giáo dục quyền con người góp phần quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng, trong đó các quyền cơ bản của con người được đề cao và tôn trọng. Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948) đã lưu ý tới hoạt động giáo dục quyền con người trên toàn thế giới. Lời nói đầu của Tuyên ngôn nhất mạnh: “Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người là mục tiêu chung cho tất cả các dân tộc và các quốc gia phải phấn đấu đạt tới để nhằm mục đích cuối cùng là mỗi cá nhân, mỗi tổ chức xã hội, luôn ghi nhớ bản Tuyên ngôn bằng giáo dục và giảng dạy sẽ nỗ lực thúc đấy tôn trọng đối với các quyền và những tự do cơ bản” [1]. Liên hợp quốc đã rất quan tâm chú ý đến hoạt động giáo dục nhân quyền coi đó là biện pháp chủ yếu để thực hiện và bảo vệ quyền con người. Điều đó đã được Liên hợp quốc thể hiện qua Nghị quyết số 48/127 ngày 20/12/1993 (A/RES/48/127) quy định lấy giai đoạn 1995 - 2004 là Thập kỷ giáo dục nhân quyền của Liên hợp quốc (the United Nations Decade for Human Rights Education) và thông qua một loạt nghị quyết khác về các vấn đề cụ thể để triển khai thực hiện Thập kỷ giáo dục nhân quyền như nghị quyết A/RES/49/184, A/RES/50/173, A/RES/50/177, A/RES/51/104, A/RES/52/127, A/RES/53/153, A/RES/54/161, A/RES/55/94, A/RES/56/167, A/RES/57/212.

Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, quyền con người được định nghĩa như sau: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người”. [2]

Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quan tâm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được phản ánh nhất quán và xuyên suốt hệ thống pháp luật. Quyền con người có ảnh hưởng vô cùng to lớn, chi phối hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội; xã hội ngày càng phát triển, vì vậy con người cũng ngày càng ý thức được quyền con người và có nhu cầu kiến thức về vấn đề này.

Với ý thức sâu sắc về quyền con người, cùng với việc ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp, trong khoảng 3 thập kỷ (từ năm 1981 đến năm 2007) Việt Nam đã liên tục tham gia, cam kết thực thi nhiều công ước quôc tế và nghị định thư quan trọng về quyền con người và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại. [3]

Hiến pháp 2013 đã đánh dấu một giai đoạn mới của chế định quyền con người, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Việt Nam chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được chuyển đổi thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đã đi đến khẳng định: Nhà nước được lập ra là để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân; việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị.

b) Phương pháp tiếp cận quyền con người trong giảng dạy

Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đưa ra định nghĩa: “Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khái niệm khung về quá trình phát triển con người có tính quy luật dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người và định hướng hoạt động để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người”. [4] Với quan điểm này, tiếp cận HRBA nhằm mục đích bảo đảm các quyền con người trên hai phương diện: (1) Nội dung quyền con người và cách thức thực thi quyền con người: chú trọng tới những quy trình, cách thức lựa chọn để đạt được những mục tiêu đó. (2) “lấy các tiêu chuẩn về quyền con người làm cơ sở để xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc về quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được kết quả đó”. Tiếp cận dựa trên quyền con người bao gồm một số nguyên tắc sau:

Thứ nhất, nguyên tắc minh bạch. Tính minh bạch thể hiện ở trạng thái chủ động, đó là khi các cơ quan nhà nước tự đánh giá được nhu cầu thông tin và chủ động cung cấp thông tin dù có được yêu cầu hay không [5]. Nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước và các chủ thể có nghĩa vụ khác phải có trách nhiệm hoạt động một cách minh bạch nhằm bảo đảm người dân được quyền tiếp cận thông tin và quyền tự do biểu đạt trong khuôn khổ cho phép.

Thứ hai, nguyên tắc tham gia. Nguyên tắc này đòi hỏi bảo đảm sự tham gia và khả năng tiếp cận của người dân với quy trình xây dựng, hoạch định chính sách, các dự án phát triển nhằm hướng đến việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Nguyên tắc này cũng giúp người dân có thể tiếp cận với những thông tin liên quan đến các dự án, chương trình phát triển, được quyền bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về các dự án và chương trình phát triển đó.

Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm giải trình. Quyền con người phải được tôn trọng và bảo vệ, công dân có quyền yêu cầu nhà nước phải thực hiện và chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ, cam kết quốc tế về quyền con người; cũng như các chuẩn mực quốc tế về quyền con người cần phải được luật hóa, ghi nhận cụ thể trong hệ thống pháp luật quốc gia.

Thứ tư, nguyên tắc không phân biệt đối xử và tiếp cận bình đẳng. Mọi cá nhân sinh ra đều bình đẳng, được hưởng những quyền con người cơ bản mà không bị phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào về lý do chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tuổi tác, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hoặc quan điểm chính trị, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, mức thu nhập, khuyết tật,... [5] Việc ưu tiên cho nhóm yếu thế trong xã hội sẽ không bị xem là phân biệt đối xử đối với các nhóm khác.

Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, giáo dục quyền con người là “vấn đề cơ bản để giải quyết các nguyên nhân cơ bản của vi phạm nhân quyền, ngăn chặn các vi phạm nhân quyền, chống phân biệt đối xử, thúc đẩy bình đẳng, và tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình ra quyết định dân chủ và chỉ có con đường giáo dục nhân quyền mới có thể thực hiện được mục tiêu đó” [6]. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ vai trò của giáo dục nhân quyền trong tiến trình phát triển của đất nước, định hướng và triển khai các hoạt động giáo dục nhân quyền trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Giáo dục nhân quyền được thực hiện ở tất cả các cấp học từ tiểu học lên đến đại học thông qua các môn học đạo đức, giáo dục công dân và được lồng ghép vào chương trình dạy học. Tuy nhiên, đối với cấp đại học, giáo dục nhân quyền chủ yếu được nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học đào tạo các chuyên ngành về các lĩnh vực xã hội như: luật, khoa học chính trị, quan hệ quốc tế… Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã nhấn mạnh “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”.

Để thúc đẩy tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đề án xác định mục tiêu giai đoạn 2021-2025 là triển khai đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quyền con người cho toàn bộ đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên, giáo viên các cấp và đến năm 2025, 100% các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân tổ chức giáo dục quyền con người cho người học. [7]

 Ngày 21/12/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 34/CT-TTg về việc tăng cường thực hiện đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đề án giáo dục quyền con người phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân trong tình hình mới. [Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 21/12/2021 về việc tăng cường thực hiện đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân]

Một tiết học tại trường Đại học Hòa Bình. Nguồn: daihochoabinh.edu.vn

2. Mối quan hệ giữa quyền con người và luật Hiến pháp

Hiến pháp là văn bản có vị trí cao nhất, đóng vai trò là đạo luật gốc, làm cơ sở cho các văn bản khác trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia. Hiến pháp quy định chế độ chính trị, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và ghi nhận quyền con người, quyền công dân… góp phần quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người.

Thứ nhất; Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ghi nhận quyền con người, quyền công dân.

Cơ sở của việc đảm bảo quyền con người là pháp luật ghi nhận những quyền đó. Việc hiến định quyền con người cũng là cách để quốc gia tuyên bố, khẳng định với thế giới về tình trạng nhân quyền của nước mình, đảm bảo về mặt số lượng cũng như phạm vi các quyền mà các công dân, cá nhân nước ngoài, người không quốc tịch được hưởng thụ.

Ngày nay, các quốc gia đều ghi nhận quyền con người và quyền công dân trong hiến pháp của nước mình, những nội dung về “quyền con người, quyền công dân” thường được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp. Có thể thấy với tư cách là đạo luật cơ bản của một quốc gia, việc ghi nhận quyền con người trong hiến pháp là một sự đảm bảo pháp lý để các quyền đó được tôn trọng và đảm bảo thực hiện.

Thứ hai, Hiến pháp đóng vai trò là công cụ hạn chế quyền lực nhà nước để bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Trước hết cần phải khẳng định rằng việc hạn chế quyền lực nhà nước là một điều rất quan trọng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở một quốc gia bởi lẽ, những quyền này rất dễ bị xâm phạm từ phía nhà nước. Nhà nước nắm trong tay quyền lực chính trị, được trang bị vũ khí, tài chính và được quyền bắt, giam, giữ con người khi cho họ là những nghi can, theo quy định mà chính bản thân nhà nước đặt ra. Bảo vệ nhân quyền trước hết cần phải có sự ngăn ngừa từ phía Nhà nước.

Khoản 2 Điều 14, Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”  [8]

Như vậy, hiến pháp đã trở thành công cụ pháp lý giới hạn quyền lực nhà nước, ngăn chặn sự vượt quá giới hạn về quyền lực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền, buộc họ chỉ được phép sử dụng quyền lực trong phạm vi cho phép. Nhờ đó mà có sự đảm bảo cần thiết cho quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm.

Thứ ba; Hiến pháp là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nhà nước để quyền con người, quyền công dân được thực thi.

Việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp không chỉ là sự thừa nhận từ phía nhà nước về những quyền ấy mà còn là sự khẳng định trách nhiệm của nhà nước trong việc hiện thực hóa những quyền này. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội, trong đó và trước hết là những cơ quan, cán bộ nhà nước. Điều đó có nghĩa rằng, các cơ quan nhà nước phải nỗ lực trong việc tạo ra cơ chế (ban hành thể chế và thành lập các thiết chế) để các quyền con người, quyền công dân được thực thi. Nếu không tạo điều kiện và cơ chế để hiện thực hóa các quyền con người, quyền công dân ghi nhận trong hiến pháp thì chính nhà nước cũng bị coi là không hoàn thành trách nhiệm và trong một chừng mực nhất định có thể bị coi là vi hiến.

3. Thực tiễn tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật Hiến pháp tại trường đại học Hòa Bình

Ngày nay, quyền con người đã trở thành những chuẩn mực, tiêu chuẩn, đòi hỏi chung của nhân loại trong mọi lĩnh vực của đời sống. Luật quốc tế với hệ thống các công ước quốc tế về quyền con người đã trở lên phổ quát; pháp luật của nhiều quốc gia không những nội luật hóa các quyền con người, mà còn thể hiện quan điểm chủ động tôn trọng, ghi nhận các quyền con người trong hệ thống pháp luật quốc gia, đồng thời thừa nhận nghĩa vụ bảo vệ, thực hiện quyền con người. Có thể thấy, từ nhận thức, tư duy đến các hành động, xu hướng tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy thực hiện quyền con người, đáp ứng các yêu cầu về quyền con người trong tình hình mới đã đi vào chủ chương, chính sách, hoạt động… của cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội (bao gồm cả tổ chức của Việt Nam và quốc tế) và ngày càng trở lên hiệu lực, hiệu quả hơn, hướng tới quyền con người, vì quyền con người.

Nội dung của tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật Hiến pháp chính là làm rõ quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người trong chính sách của quốc gia; làm rõ quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước trong việc coi con người là trung tâm, là mục tiêu của sự phát triển, của mọi chính sách pháp luật. Điều này được khẳng định tại Điều 3 của Hiến pháp 2013:

“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.” [8]

Hiến pháp là đạo luật gốc, là nền tảng, là cơ sở để xây dựng và phát triển toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Mọi đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác đều phải căn cứ vào hiến pháp để ban hành. Những quy định về quyền con người trong hiến pháp có giá trị hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở pháp lý chủ yếu để nhà nước và xã hội tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền con người và công dân. Bằng cách tiếp cận quyền con người khi giảng dạy môn Luật Hiến pháp, sinh viên thấy được “bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” chính là cốt lõi, là mục đích cuối cùng của Nhà nước và pháp luật.

Hiến pháp 2013 đã dành 36 điều ở Chương II trên tổng số 120 điều của Hiến pháp cho việc chế định trực tiếp các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quy định về quyền con người trong Hiến pháp chính là nguyên tắc, là cơ sở để các ngành luật thể chế hoá các tư tưởng chứa đựng trong các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp.

Học phần Luật Hiến pháp là học phần bắt buộc được trang bị cho sinh viên ở những kỳ đầu tiên trước khi nghiên cứu các ngành luật chuyên ngành khác trong chương trình đào tạo. Ngành luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rộng lớn, bao hàm hầu hết những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất, là những quan hệ nền tảng mà chỉ khi nào xác định được hướng điều chỉnh chúng thì mới xác định được hướng điều chỉnh các quan hệ cụ thế. Chính vì vậy, tiếp cận quyền con người trong việc giảng dạy, học tập môn Luật Hiến pháp sẽ là cánh cửa ngắn nhất để sinh viên tiếp cận, nắm được nội hàm của hệ thống pháp luật Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tư duy, học tập các ngành luật khác.

Những kết quả đạt được

Giảng dạy và nâng cao nhận thức về quyền con người đang là một đòi hỏi và cũng nhiệm vụ cấp bách đối với các giảng viên của trường đại học Hòa Bình trong thời kỳ mới. Đa số giảng viên đã thấy rõ được sứ mệnh, trách nhiệm và tích cực tiếp cận, truyền tải các giá trị của quyền con người tới sinh viên trong giảng dạy môn Luật Hiến pháp. Hiến pháp là cơ sở, là nguồn gốc của hệ thống pháp luật. Giảng viên sẽ là người giảng dạy, gợi mở, kết nối các nội dung nội hàm kiến thức của các quy định trong Hiến pháp với các nội dung quyền con người khác không chỉ trong Hiến pháp mà xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Những mối quan hệ này tồn tại như một thể thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp luật, nhằm thực hiện nhiệm vụ “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;”, đảm bảo “các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”

Thực tế các sinh viên, học viên của Trường Đại học Hòa Bình đã được tiếp cận, lĩnh hội các giá trị của quyền con người, không chỉ thông qua chế định về quyền con người trong môn học Luật Hiến pháp mà còn được tiếp cận thông quá nhiều môn học khác. Khi tiếp cận các nguyên tắc, nội dung của các ngành luật, giảng viên sẽ hướng dẫn sinh viên tiếp cận dưới góc độ quyền cơ bản của con người được quy định trong Hiến pháp.

Không chỉ dừng lại ở mức độ lý luận, mà người học còn ứng dụng vào thực tiễn thông qua các hoạt động ngoại khóa của sinh viên như hoạt động kiến tập, tham quan, thực tế, thực tập tại các cơ sở nghề luật,… tham gia các cuộc thi tìm hiểu về quyền con người do Nhà trường và các cơ quan, tổ chức phát động nhằm kiểm nghiệm, thực hành các kiến thức và giá trị quyền con người trên thực tế. Các sinh viên của Trường sau khi tốt nghiệp, công tác tại nhiều vị trí khác nhau trong xã hội, đã được trang bị kiến thức, các giá trị quyền con người sẽ có tinh thần trách nhiệm cao hơn, biết tôn trọng, thực hiện, bảo vệ, thúc đẩy các giá trị quyền con người bằng kỹ năng, năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tinh thần pháp quyền và vì con người.

Khó khăn và nguyên nhân

Thứ nhất, việc tiếp cận quyền con người trong giảng dạy Luật Hiến pháp chưa đồng đều, chưa thống nhất giữa các giảng viên giảng dạy kiến thức và các quy định của Luật Hiến pháp. Nguyên nhân của hạn chế này, theo tác giả, là do kinh nghiệm giảng dạy khác nhau, sự tiếp cận, tích lũy kiến thức chuyên môn với quyền con người của giảng viên trẻ tuổi và có kinh nghiệm là khác nhau. Một số giảng viên còn nặng về phân tích, giảng dạy nội hàm các quy định của Hiến pháp; hoặc chỉ giới thiệu ở mức rất khái quát về giá trị quyền con người cho người học mà chưa chú trọng tới việc phân tích các mối quan hệ giữa quyền con người của Hiến pháp với các ngành luật khác; phân tích các ví dụ thực tế và tiếp cận quyền con người trong việc hiểu nội hàm các quy định của Hiến pháp. Bên cạnh đó, Nhà trường cũng chưa có Chương trình hành động rõ ràng về tiếp cận quyền con người trong giảng dạy các học phần trong chuyên ngành Luật Kinh tế. Những tọa đàm, hội thảo, sinh hoạt khoa học với chủ đề về tiếp cận quyền con người trong giảng dạy Luật Hiến pháp hay các môn học khác tại các Khoa, hoặc liên kết giữa các đơn vị hầu như chưa được tổ chức.

Thứ hai, chưa có tài liệu chuyên biệt để giảng dạy, học tập, nghiên cứu về quyền con người. Hầu như sinh viên chỉ được tiếp cận quyền con người với tư cách là một chế định của Hiến pháp 2013, các tài liệu còn hạn chế khiến cho việc học tập, nghiên cứu về quyền con người gặp nhiều khó khăn. Trong chương trình đào tạo cử nhân Luật Kinh tế tại Trường đại học Hòa Bình chưa có học phần Quyền con người; điều này khiến cho sinh viên chưa được trang bị một cách đầy đủ những kiến thức, kỹ năng và cách tư duy tiếp cận quyền con người khi nghiên cứu về Luật Hiến pháp nói riêng và các ngành luật khác.

Thứ ba, chất lượng đầu vào của sinh viên Trường đại học Hòa Bình chưa cao, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình nhận thức, học tập của sinh viên. Nhiều sinh viên có khởi đầu thấp nhưng ngay từ khi nhập học đã tự mình nỗ lực cố gắng học tập, tìm ra cho mình phương pháp tự học có hiệu quả nhất thì vẫn có thể đạt được kết quả học tập tốt. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng nếu đầu vào thấp thì quá trình đào tạo của cơ sở giáo dục dù tốt đến bao nhiêu cũng khó có thể làm cho toàn bộ sản phẩm cùng tốt, năng lực học tập ở bậc trung học phổ thông tốt thì cũng thuận lợi hơn rất nhiều trong quá trình học đại học.

4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiếp cận quyền con người trong giảng dạy môn Luật Hiến pháp tại trường Đại học Hòa Bình

Thực hiện Quyết định 1309/QĐ-TTg ngày 5-9-2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đưa nội dung giáo dục quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, hoạt động giáo dục quyền con người đã được tăng cường thêm một bước, xét cả về nội dung và phạm vi tổ chức. Việc giáo dục quyền con người với mức độ nhất định và bằng các phương pháp phù hợp trong các trường cao đẳng, đại học là cần thiết và có tính khả thi.

Nếu như giáo dục quyền con người ở cấp độ phổ thông nhằm hình thành nhân cách, nhận thức và thái độ hành xử đúng đắn cho các công dân trẻ trong các vấn đề về quyền con người, cả ở hiện tại và trong tương lai, thì mục tiêu của giáo dục quyền con người ở cấp độ đại học trong các trường chuyên luật là để đào tạo các chuyên gia trên lĩnh vực này. Nhằm thực hiện tốt và hiệu quả hơn nữa việc tiếp cận quyền con người trong giảng dạy Luật Hiến pháp tại trường đại học Hòa Bình, Nhà trường và giảng viên cần lưu ý các giải pháp sau:

Một là, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng giáo dục quyền con người không chỉ đối với sinh viên mà còn tới toàn thể người lao động, giáo viên và Ban giám hiệu nhà trường. Sinh viên được giáo dục, có kiến thức về quyền con người sẽ có định hướng, hiểu được những giá trị bản thân, lòng tự tôn và bản sắc văn hóa của dân tộc, sự bình đẳng và tôn trọng giữa các quốc gia trong khu vực. Nhà trường nên nghiên cứu đưa thuật ngữ quyền con người, giáo dục quyền con người, hướng tới các giá trị quyền con người, bảo đảm, thúc đẩy quyền con người vào mục tiêu chiến lược, sứ mệnh, giá trị cốt lõi, tầm nhìn… của Nhà trường. Từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể về tiếp cận quyền con người trong giảng dạy hiệu quả, tiến tới thống nhất được hành động tiếp cận quyền con người về mức độ, phạm vi, tần suất trong giảng dạy.

Hai là, lãnh đạo khoa Luật cần tổ chức nhiều các tọa đàm, hội thảo về quyền con người, giáo dục quyền con người ở cả trong nội bộ hoạt động của khoa và liên kết với các đơn vị ngoài trường khác, thường xuyên cho sinh viên trao đổi thảo luận về quyền con người trên lớp thông qua việc cho sinh viên làm bài tập lớn theo nhóm, cho sinh viên đóng vai luật sư tư vấn, diễn thuyết vấn đề nghiên cứu... Bên cạnh đó, có thể tổ chức các cuộc thi sinh viên viết bài nghiên cứu theo chủ đề về quyền con người, các bài tập tình huống về các vấn đề về quyền con người theo quy định của Luật quốc tế... Những phương pháp này sẽ giúp sinh viên tiếp thu hiệu quả kiến thức và có khả năng nghiên cứu khoa học.

Khuyến khích sinh viên thành lập các câu lạc bộ chuyên ngành về quyền con người để sinh viên có thế cùng nhau học tập, sinh hoạt chủ đề môn học theo tháng, học nhóm, cùng nhau thảo luận những vướng mặc, khó khăn trong quá trình học tập môn học; để từ đó, cùng có hướng giải quyết và phương pháp học tích cực.

Ba là, Nhà trường cần nghiên cứu để đưa nội dung quyền con người trở thành một môn học riêng trong chương trình đào tạo cử nhân Luật Kinh tế. Song song với đó là biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho môn học này thay vì sinh viên chỉ được tiếp cận nội dung quyền con người như một chế định của Luật Hiến pháp.

Bốn là, cần xây dựng đội ngũ giảng viên có kiến thức chuyên sâu giảng dạy về quyền con người. Đây là điều kiện bắt buộc để có thể đưa nội dung giáo dục về quyền con người vào giảng dạy trong chương trình giáo dục đại học. Trước mắt, có thể đào tạo giảng viên từ đội ngũ giảng viên đang dạy các môn có liên quan và đây sẽ là những giảng viên cho cả môn học này chứ không chỉ tạm thời, kiêm nhiệm. Giáo dục về quyền con người có mối quan hệ mật thiết với giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, do đó, về chiến lược có thể đào tạo đội ngũ giảng viên từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các trường luật, chính trị.

5. Kết luận

Giáo dục quyền con người ở Việt Nam có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ; đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để quần chúng nhân dân hình thành nhận thức đúng đắn về quyền con người, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước; chống lại những hoạt động lợi dụng chiêu bài “nhân quyền” của một số nước phương Tây và các thế lực phản động, thù địch chống phá quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Tiếp cận quyền con người trong giảng dạy các học phần trong chương trình đào tạo nói chung, giảng dạy luật Hiến pháp nói riêng đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên, học viên tại trường đại học Hòa Bình phải có quyết tâm chính trị cao, có sự đồng lòng, chung sức và sự đầu tư thiết thực mới đem lại hiệu quả mong muốn.

Quá trình này đòi hỏi từng bước nâng cao nhận thức của người dạy, người học và qua người học lan tỏa ra toàn xã hội ý thức tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, qua đó giúp ngăn ngừa, hạn chế vi phạm quyền con người, cung cấp tri thức, trang bị kỹ năng, củng cố niềm tin, giúp mỗi người nhận thức đúng đắn ý nghĩa, giá trị của quyền con người, biết tự mình bảo vệ các quyền, tuân thủ pháp luật và biết tôn trọng phẩm giá, các quyền và tự do của người khác trong xã hội

ThS. Phạm Thị Huyền Khoa Luật

Trường Đại học Hòa Bình

Tài liệu tham khảo

1. Liên Hợp quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948

2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền con người (dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận Chính trị, tái bản có cập nhật, chỉnh sửa năm 2021, H. 2021, tr. 13.

3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb Tư pháp 2022, tr. 199.

4. OHCHR: Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, p. 15 https://unsdg.un.org/sites/default/files/FAQen2.pdf

5. Lê Thị Trang, Tiếp cận dựa trên quyền con người trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản, 2023.

6. Lê Thị Phương, Tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng cho sinh viên Trường Đại học Công nghệ Thông tin - Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh (Kỳ 1), Tạp chí Pháp luật về quyền con người, 2023.

https://qcn.hcma.vn/Content/tiep-can-quyen-con-nguoi-trong-giang-day-luat-so-huu-tri-tue-va-luat-an-ninh-mang-cho-sinh-vien-truong-dai-hoc-cong-nghe-thong-tin---dai-hoc-quoc-gia-ho-chi-minh-495414

7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1309/QĐ- TTg ngày 05/9/2017 phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.

8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp 2013.