Việc kiểm soát quyền lực bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự là yêu cầu tất yếu trong công cuộc xây dựng nền tư pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân” ở Việt Nam. Bài viết này sẽ luận giải cho tính tất yếu đó và phân tích các cơ chế kiểm soát quyền lực bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự được thiết lập bởi Hiến pháp, pháp luật hiện hành. Đây là những tri thức tiền đề phục vụ cho việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người của hệ thống cơ chế này.

Tòa án và các cán bộ xét xử được trao quyền tư pháp.
Nguồn: baovephapluat.vn.

Xét xử vụ án hình sự là hoạt động trung tâm của tư pháp hình sự, trong đó, quyền lực tư pháp hình sự được thực hiện thông qua việc Nhà nước (đại diện bởi Tòa án) nhân danh công lý buộc tội và trừng trị người phạm tội về hành vi trái pháp luật hình sự mà người đó đã thực hiện. Kết quả của hoạt động xét xử vụ án hình sự là bản án có khả năng kết tội và áp dụng những biện pháp trừng trị hà khắc đối với người bị kết tội, có thể đến mức tước đoạt tự do, tính mạng. Quyền lực áp đặt trong việc đưa ra phán quyết như trên nếu được thực hiện với sự bất cẩn, tùy tiện hay lạm quyền thì công lý sẽ bị bẻ cong, làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm..., dẫn đến hậu quả thiệt hại về quyền con người vô cùng nghiêm trọng. Do đó, việc kiểm soát quyền lực bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự là tất yếu. Hơn nữa, bản chất quyền lực nhà nước, bao gồm quyền lực tư pháp, vốn được nhân dân trao cho Nhà nước, Nhà nước có nghĩa vụ sử dụng quyền lực đó để phục vụ lợi ích của nhân dân nên nó cần phải được kiểm soát nhằm phục vụ nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân1 hiện nay, một hệ thống các cơ chế kiểm soát quyền lực đã được tổ chức và vận hành nhằm bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự. 

1. Khái niệm, đặc điểm và tính tất yếu của kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự

a) Khái niệm kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự

Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm trong các giai đoạn của quy trình tố tụng hình sự. Trong đó, cơ quan có thẩm quyền xét xử của Nhà nước (Tòa án) căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành rà soát và đánh giá một cách toàn diện, khách quan các chứng cứ, tình tiết của vụ án hình sự để giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội (bị cáo) một cách công minh và đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội, góp phần có hiệu quả vào đấu tranh phòng và chống tội phạm. Để đảm bảo cho tính công minh, chính xác của hoạt động xét xử, pháp luật quốc tế quy định: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật” (khoản 5 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966). Pháp luật Việt Nam cũng quy định việc xét xử vụ án hình sự theo hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự “là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó, Tòa án có thẩm quyền (cấp xét xử thứ nhất) thực hiện trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa xem xét, giải quyết vụ án bằng việc ra bản án quyết định bị cáo (hoặc các bị cáo) có tội hay không có tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp, cũng như các quyết định tố tụng khác theo quy định pháp luật”2. Xét xử phúc thẩm “là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”3. Theo đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục xét xử đầu tiên và bắt buộc, trong rất nhiều vụ án, xét xử sơ thẩm cũng là bước xét xử duy nhất nếu bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, dù vụ án được xét xử theo thủ tục nào thì kết quả cuối cùng vẫn là bản án quyết định bị cáo (các bị cáo) có tội hay không có tội, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo có tội và các quyết định tố tụng khác liên quan đến nội dung vụ án. Tựu trung lại, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự, trong đó, Tòa án có thẩm quyền dựa trên quy định pháp luật và các chứng cứ khách quan của vụ án để ra bản án quyết định về trách nhiệm hình sự của bị cáo (các bị cáo) và các nội dung khác có liên quan của vụ án.

Với nội dung như vậy, quyền lực mà Tòa án thực thi trong xét xử vụ án hình sự là quyền phán xét, quyết định về trách nhiệm hình sự. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có giá trị bắt buộc thi hành đối với người bị kết án và cá nhân, tổ chức có liên quan; sẽ được bảo đảm thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành án có lực lượng, phương tiện, sức mạnh cưỡng chế. Sự hiện hữu của quyền lực mạnh mẽ này là phương tiện bảo vệ pháp luật, bảo đảm tinh thần thượng tôn pháp luật của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, quyền lực luôn có xu hướng bị “tha hóa” nếu không được kiểm soát; “tha hóa quyền lực” làm biến tướng bản chất, mục đích của quyền lực, khi đó quyền lực không được thực hiện vì mục đích, lợi ích chung mà bị lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực. Do đó, trao quyền lực, thực thi quyền lực cũng đồng thời với việc phải kiểm soát quyền lực. Kiểm soát quyền lực được hiểu là toàn bộ hoạt động nhằm phát hiện, ngăn chặn, loại bỏ những hành vi sai trái trong hoạt động thực thi quyền lực, bảo đảm cho quyền lực được thực thi đúng mục đích và hiệu quả, không bị lạm dụng, lợi dụng để trục lợi. Như vậy, kiểm soát quyền lực trở thành yêu cầu tự thân, tất yếu khách quan của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm quyền tư pháp.

Tòa án và các cán bộ xét xử được trao quyền tư pháp, được đưa ra phán xét về trách nhiệm hình sự trong xét xử vụ án hình sự, quá trình thực thi quyền lực đó lại có tính độc lập cao nên nếu không kiểm soát chặt chẽ thì nguy cơ lạm quyền, lộng quyền, tham nhũng, tiêu cực sẽ dẫn đến khả năng vi phạm quyền con người nghiêm trọng, biến công lý thành bất công, phi lý. Do đó, kiểm soát quyền lực trong xét xử vụ án hình sự là kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền ra quyết định, bản án về hình sự của Tòa án/cán bộ xét xử để phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ lạm quyền, lộng quyền, tiêu cực làm sai lệch công lý, vi phạm quyền con người.

Quyền lực tư pháp hình sự tập trung ở giai đoạn xét xử vụ án với quyền năng ban hành phán quyết về trách nhiệm hình sự nên nhu cầu về quyền con người chủ yếu được đặt ra trong xét xử vụ án hình sự là quyền được xét xử công bằng. Quyền được xét xử công bằng ghi nhận tại Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Điều 31 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 bao gồm một tập hợp các quyền cấu thành: quyền bình đẳng trước Tòa án; quyền được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; quyền được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai; quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm; quyền bào chữa; quyền kháng cáo; quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự trong trường hợp bị kết án oan, sai. Nội dung quyền được xét xử công bằng tập trung vào việc bảo vệ người bị buộc tội, tuy nhiên, quyền bình đẳng trước Tòa án, được giải quyết quyền lợi, trách nhiệm bằng một phiên tòa công bằng, công khai cũng bảo đảm sự công bằng cho những người tham gia tố tụng khác.

Cùng với quyền được xét xử công bằng, nhu cầu bảo vệ một số quyền con người khác cũng được đặt ra trong xét xử vụ án hình sự như: các quyền về an ninh cá nhân, quyền về tiêu chuẩn đối xử riêng đối với người chưa thành niên, quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu... Tuy nhiên, suy cho cùng thì phiên tòa công bằng vốn phải đảm bảo những quyền này và ngược lại, việc bảo vệ các quyền này trong giai đoạn xét xử cũng là những bảo đảm cho tính công bằng, nghiêm minh của phiên tòa.

Những phân tích về xét xử vụ án hình sự, kiểm soát quyền lực, quyền con người trong xét xử vụ án hình sự ở trên cho phép nhận thức chung về khái niệm kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự như sau: Kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự là kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền ra quyết định, bản án về hình sự của Tòa án/cán bộ xét xử để phòng ngừa, ngăn chặn sự lạm quyền, lộng quyền, tiêu cực xâm phạm đến công lý và quyền con người.

b) Đặc điểm của kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự

Kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự vừa có những đặc điểm của kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, vừa có những đặc điểm gắn với nội dung, tính chất của hoạt động tố tụng trong giai đoạn xét xử nói riêng.

Thứ nhất, đối tượng kiểm soát quyền lực trong xét xử vụ án hình sự là cơ quan/người tiến hành xét xử để ngăn chặn nguy cơ họ sử dụng quyền lực bất cẩn hoặc lạm quyền, lộng quyền dẫn đến vi phạm quyền con người của người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử. Trong mối quan hệ tố tụng ở giai đoạn xét xử, cơ quan/người tiến hành xét xử là bên thực hiện quyền lực nhà nước, có quyền áp đặt mệnh lệnh, ban hành phán quyết mà người tham gia tố tụng phải chấp hành. Tuy các quan tòa mang sứ mệnh của những vị trọng tài chí công vô tư nhưng suy cho cùng họ vẫn là con người có tình cảm, lập trường, ham muốn cá nhân. Vì thế, việc trao quyền lực phán xử phải đi kèm với kiểm soát quyền lực để tránh sự bất cẩn, lạm quyền, lộng quyền trong thực thi quyền lực ấy dẫn đến vi phạm quyền con người.

Thứ hai, để bảo vệ công lý và quyền con người trong xét xử vụ án hình sự thì mục tiêu của kiểm soát quyền lực phải là bảo đảm việc xét xử độc lập, tuân theo và chỉ tuân theo pháp luật. Kiểm soát quyền lực trong xét xử được đặt ra trong nhà nước pháp quyền là để bảo đảm thượng tôn pháp luật chứ không phải kiểm soát để tác động, chi phối, điều khiển xét xử. Nền tảng của nền tư pháp trong nhà nước pháp quyền là việc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên nếu hoạt động xét xử bị chi phối, điều khiển bởi một thế lực nào khác pháp luật thì sẽ không còn pháp quyền, cán cân công lý bị sai lệch, phán quyết được ban hành không còn công bằng.

Thứ ba, trách nhiệm kiểm soát quyền lực trong xét xử vụ án hình sự trước tiên và chủ yếu thuộc về các cơ quan nhà nước. “Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của nhà nước mà là quyền lực của nhân dân, được nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền thông qua quyền lập hiến của mình. Vì thế, hơn ai hết, nhà nước phải tự kiểm soát được mình, để sau khi nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền, quyền lực nhà nước được vận hành theo đúng quyền lực được nhân dân giao cho; phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước”4. Như vậy, kiểm soát quyền lực là phương tiện để Nhà nước tự mình giữ vững bản chất dân chủ, nhưng để bảo đảm sự khách quan, chặt chẽ thì Nhà nước không thể là chủ thể duy nhất thực hiện kiểm soát quyền lực mà chính nhân dân - người đã trao quyền cho Nhà nước vẫn tiếp tục tham gia vào việc kiểm soát quyền lực ấy bằng các cơ chế, cách thức khác nhau. Do đó, kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát quyền lực trong xét xử vụ án hình sự nói riêng sẽ bao gồm các các cơ chế bên trong và bên ngoài, cơ chế mang tính quyền lực nhà nước và không mang tính quyền lực nhà nước, trong đó, các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm và tạo điều kiện cho các cơ chế kiểm soát phi nhà nước hoạt động hiệu quả.

c) Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự

Việc kiểm soát quyền lực bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự là yêu cầu tất yếu vì bản chất của quyền lực nhà nước và đặc thù của quan hệ tư pháp hình sự.

Trước hết, quyền lực nhà nước, bao gồm quyền lực tư pháp, vốn được nhân dân trao cho Nhà nước, Nhà nước có nghĩa vụ sử dụng quyền lực đó để phục vụ lợi ích của nhân dân. Do đó, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 tại Điều 14 đã xác lập nghĩa vụ của Nhà nước trong việc  công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Những nhiệm vụ hàng đầu của tố tụng hình sự tại Việt Nam cũng được Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã là nguyên tắc hiến định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Và, một trong những mục tiêu trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới được Đảng ta xác định là: “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả”5.

Bên cạnh đó, đặc thù của quan hệ tư pháp hình sự đòi hỏi quyền lực thực thi trong đó phải được kiểm soát đặc biệt chặt chẽ. Một là, quyền lực trong quan hệ tư pháp hình sự là quyền lực áp đặt tuyệt đối. Như đã chỉ ra, Tòa án/cán bộ xét xử là người “cầm thanh gươm công lý”, bản án, quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật đã ban hành có giá trị bắt buộc phải chấp hành, không thể thương lượng, thay đổi. Quyền lực áp đặt đó nếu được thực hiện bất cẩn hoặc tùy tiện, lạm dụng sẽ khiến những người tham gia tố tụng buộc phải gánh chịu bất công. Hai là, các phán quyết về hình sự có thể mang lại cho người này công lý, sự đền bù, cũng có thể tước đoạt của người khác những giá trị quan trọng nhất như tự do, sinh mạng. Những phán quyết đó không được ban hành trên căn cứ pháp luật và trình tự xét xử công bằng, khách quan thì sự tổn hại về quyền con người sẽ là vô cùng nghiêm trọng. Ba là, dấu ấn lịch sử của nền tư pháp ở các nhà nước tập quyền luôn ẩn chứa sự hạn chế tranh tụng, hạn chế sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa bên buộc tội mà đại điện là các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với bên bị cáo buộc phạm tội. Điều kiện như vậy rất dễ dẫn đến khả năng “thiên vị” trong xét xử nên sự kiểm soát chặt chẽ đối với quyền lực của cơ quan/người xét xử là yếu tố giữ vững sự công bằng. Bốn là, hoạt động xét xử đặc biệt chịu nhiều áp lực từ những cám dỗ, tiêu cực với mục tiêu làm sai lệch công lý. Xét xử là trung tâm của quá trình tố tụng, nơi cho ra quyết định về vấn đề trách nhiệm hình sự và các vấn đề liên quan khác trong giải quyết vụ án hình sự nên muốn tác động, chi phối làm sai lệch kết quả đó thì việc tác động, chi phối ở khâu xét xử là hiệu quả trực tiếp nhất. Do đó, việc kiểm soát quyền lực phải được thực hiện chặt chẽ nhằm ngăn chặn khả năng cán bộ xét xử lạm quyền vì vụ lợi, tiêu cực.

2. Thực tiễn pháp luật về kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay

Với tư cách là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia hiện hành, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 tuyên bố nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người của Nhà nước (Điều 14). Chính vì mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người này mà quyền lực nhà nước không thể là vô hạn mà phải nằm trong một khuôn khổ nhất định, tức là quyền lực nhà nước phải bị kiểm soát. Do vậy, đồng thời với việc tuyên bố nghĩa vụ của Nhà nước về quyền con người, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 xác định nguyên tắc kiểm soát trong tổ chức quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2).

Trên cơ sở Hiến pháp, một trong những mục tiêu trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới được Đảng ta xác định là: “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả”6.

Thực hiện nguyên tắc của Hiến pháp, và chủ trương, đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc kiểm soát quyền lực trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay được thực hiện thông qua các cơ chế như sau:

a) Hoạt động tự kiểm soát trong hệ thống cơ quan xét xử

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, hiện nay được tổ chức thành hệ thống bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự. Ngoài ra, theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2024, có hiệu lực từ 01/01/2025, hệ thống Tòa án sẽ có thêm các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt (về Hành chính, Sở hữu trí tuệ, Phá sản).

Việc thực thi quyền lực xét xử của các Tòa án phải chịu cơ chế tự kiểm soát bên trong hệ thống Tòa, đó là việc Tòa án nhân dân tối cao, dựa trên các quy định của pháp luật, kiểm soát Tòa án các cấp về phương diện tổ chức và hoạt động chuyên môn.

Đối với phương diện tổ chức, Tòa án nhân dân tối cao kiểm soát các Tòa án cấp dưới thông qua việc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định thành lập, quyết định biên chế, nhiệm vụ, quyền hạn; quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án của Tòa án các cấp. Việc kiểm soát về tổ chức này bảo đảm giới hạn quyền lực của Tòa án theo Hiến pháp, pháp luật; bảo đảm tiêu chuẩn, năng lực cán bộ Tòa án và giám sát, quản lý việc hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của cán bộ Tòa án. Thực hiện việc kiểm soát về tổ chức, Tòa án nhân dân tối cao còn ban hành các quy định, quy chế nhằm kiểm soát hoạt động của cán bộ trong hệ thống Tòa án, ví dụ như: Quyết định 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc ban hành quy định xử lý trách nhiệm của người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân; Quyết định số 87/QĐ-HĐTC của Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia - Tòa án nhân dân tối cao ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán...

Đối với hoạt động xét xử, việc tự kiểm soát trong hệ thống Tòa án được thực hiện qua việc phân cấp thẩm quyền xét xử và kiểm tra bản án, quyết định sơ thẩm thông qua thủ tục phúc thẩm, khắc phục sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực. Theo phân cấp hiện nay, Tòa án nhân dân cấp huyện được giao nhiệm vụ thực hiện việc xét xử sơ thẩm; Tòa án tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, xét xử phúc thẩm những vụ án của Tòa án nhân dân cấp huyện có kháng cáo, kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị. Tòa án nhân dân cấp cao kiểm soát hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện bằng hoạt động xét xử phúc thẩm những vụ án mà cấp tỉnh xét xử sơ thẩm và xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có hiệu lực pháp luật.

b) Hoạt động kiểm soát ngoài hệ thống cơ quan xét xử

Việc thực thi quyền lực xét xử vụ án hình sự chịu sự kiểm soát từ bên ngoài hệ thống Tòa án bởi cả cơ chế mang tính quyền lực nhà nước và cơ chế không mang tính quyền lực nhà nước.

Kiểm soát mang tính quyền lực nhà nước đối với hoạt động xét xử bao gồm hoạt động giám sát tốt cao của Quốc hội, kiểm sát tư pháp của Viện kiểm sát, giám sát của cơ quan cơ dân cử và các thiết chế chính trị - xã hội.

Theo quy định tại điều 70 Hiến pháp, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của hệ thống Tòa án. Quốc hội có thẩm quyền ban hành luật về tổ chức Tòa án để quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức của hệ thống Tòa án; quyết định về công tác nhân sự của Tòa án nhân dân tối cao, quyết định về kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án; thành lập, giải thể Tòa án các cấp... Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội về công tác của cả hệ thống Tòa án.

Trong hoạt động xét xử các vụ án cụ thể, Tòa án chịu sự kiểm soát trực tiếp từ hoạt động kiểm sát xét xử của Viện Kiểm sát nhân dân. Viện Kiểm sát tiến hành kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong xét xử vụ án bảo đảm việc xét xử vụ án đúng pháp luật; mọi vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Hoạt động kiểm sát xét xử nói riêng, kiểm sát tư pháp nói chung của Viện Kiểm sát nhân dân nhằm thực hiện “nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 107 Hiến pháp năm 2013).

Hoạt động xét xử của Tòa án cũng thuộc đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành Viện theo quy định tại Điều 9 Hiến pháp. Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị xác định đối tượng giám sát bao gồm cả Tòa án và các cán bộ xét xử về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) để thực hiện sứ mệnh quan trọng của Mặt trận Tổ Quốc là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

Kiểm soát bên ngoài không mang tính quyền lực nhà nước đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự là toàn bộ hoạt động giám sát của người tham gia tố tụng theo cơ chế khiếu nại, tố cáo, kháng cáo; của truyền thông, báo chí, quần chúng nhân dân...

Quyền khiếu nại, tố cáo đối với vi phạm trong xét xử vụ án hình sự được bảo đảm trực tiếp tại Điều 32 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo. Trong đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại; cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Và cơ quan, người có thẩm quyền có nghĩa vụ tiếp nhận, xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục.

Việc bảo đảm quyền kháng cáo được thực hiện theo nguyên tắc về chế độ xét xử hai cấp sơ thẩm, phúc thẩm ở Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành. Theo đó, người tham gia tố tụng có thể kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo quy định. Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo phải được xét xử phúc thẩm. Hơn nữa, trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, người tham gia tố tụng có thể kiến nghị Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hiện kháng nghị để xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm.

Nguyên tắc xét xử công khai ở Điều 31 Hiến pháp và Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự cho phép sự tham gia, chứng kiến của quần chúng nhân dân, truyền thông, báo chí và tất cả các lực lượng xã hội vào phiên tòa. Do đó, hoạt động xét xử cũng chịu sự giám sát của rộng rãi của các lực lượng xã hội, trở thành những ràng buộc xã hội chặt chẽ để bảo đảm sự khách quan, chí công, vô tư trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Những nghiên cứu lí luận và thực tiễn pháp luật về kiểm soát quyền lực bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay cho thấy: kiểm soát quyền lực để phòng ngừa nguy cơ lạm quyền, lộng quyền dẫn đến vi phạm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự là yêu cầu tất yếu trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta. Trên cơ sở đó, một hệ thống cơ chế kiểm soát quyền lực đã hình thành và hoạt động nhằm bảo đảm mục tiêu công lý và quyền con người trong xét xử vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá sát thực hiệu quả của hệ thống cơ chế này còn bị bỏ ngỏ, cần được tiếp tục quan tâm nghiên cứu nhằm phát huy hiệu quả bảo vệ quyền con người và hoàn thiện nền tư pháp công minh, liêm chính trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

TS. Trần Thị Hồng Lê

Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 39 (08/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

(2) Hoàng Thị Minh Sơn (CB) (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, tr.391.

(3) Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2021), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung, Điều 330.

(4) Trần Ngọc Đường (2023), Kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 15/10/2023, link truy cập: https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/kiem-soat-quyen-luc-trong-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-theo-tinh-than-nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-6-khoa-xiii 

(5) Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

(6) Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.