Quyền được trợ giúp pháp lý của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương thời gian qua đã được pháp luật Việt Nam quy định phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền đã đặt ra nhiệm vụ “mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước”. Bài viết nghiên cứu về quy định quyền được được trợ giúp pháp lý qua các thời kỳ, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quyền được trợ giúp pháp lý theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022.

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí tại xã Nghiêm Xuyên, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội.

Nguồn: luatsuhanoi.vn

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật (Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý). Trong pháp luật trợ giúp pháp lý, các quy định về quyền được trợ giúp pháp lý, cụ thể là các quy định về diện người được trợ giúp pháp lý luôn được quan tâm và trở thành một chế định quan trọng. Qua các thời kỳ, quy định quyền được trợ giúp pháp lý luôn được nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện để ngày càng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng giai đoạn của đất nước và đáp ứng được nhu cầu trợ giúp pháp lý của người nghèo, người yếu thế, người dễ tổn thương trong xã hội.

1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền được trợ giúp pháp lý qua từng thời kỳ

a) Quy định quyền được trợ giúp pháp lý trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2006

Thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng, đất nước ta đã chuyển sang một giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để phù hợp với công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, ngày 31/5/1995 Văn phòng Trung ương Đảng ra Thông báo số 485/ CV-VPTW, trong đó chủ trương “cần mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân, nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày... cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”. Ngày 18/6/1997, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), đã chỉ rõ “tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”.

Thể chế hoá chủ trương của Đảng, trên cơ sở thực hiện thí điểm hoạt động trợ giúp pháp lý tại một số tỉnh, ngày 6/9/1997 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 734/TTg về thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, là căn cứ pháp lý cho sự ra đời, phát triển của hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý. Theo Quyết định này, hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương, bao gồm Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp và các Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp, đồng thời quy định cụ thể vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức trợ giúp pháp lý. Cụ thể hóa Điều 6 Quyết định 734/QĐ-TTg, ngày 14/01/1998 Liên Bộ Tư pháp, Tài chính, Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ); Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 52/TTLT/TP-TC-TCCP-LĐTBXH hướng dẫn thi hành Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Thông tư liên tịch xác định rõ diện đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí; phạm vi, phương thức trợ giúp pháp lý; kinh phí hoạt động của các tổ chức trợ giúp pháp lý. Theo Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 52/TTLT/TP-TC-TCCP-LĐTBXH ngày 14/01/1998 hướng dẫn thi hành Quyết định trên thì đối tượng trợ giúp pháp lý là người nghèo, đối tượng chính sách (người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng miễn án phí), và các đối tượng khác (người nước ngoài theo Hiệp định tương trợ tư pháp; một số đối tượng đặc thù như trẻ em, người tàn tật, người di cư, người già cô đơn, phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em).

b) Quy định quyền được trợ giúp pháp lý trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2017

Ngày 29/6/2006 Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 9 đã thể chế hóa chính sách cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo của Đảng bằng một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao là Luật Trợ giúp pháp lý. Đây là một bước đột phá lớn về mặt thể chế, nâng tầm từ 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ lên thành Luật mà không cần qua bước Nghị định, Pháp lệnh. Điều đó khẳng định sự nhìn nhận, đánh giá cao của Quốc hội đối với những thành tựu mà công tác trợ giúp pháp lý đã đạt được trong giai đoạn được.

Để triển khai Luật Trợ giúp pháp lý kịp thời, ngày 13/10/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý. Ngày 12/01/2007, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật (ngày 5/2/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý).

Theo quy định tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý, Điều 2 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, khoản 1 Điều 1 Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP thì những người thuộc diện được trợ giúp pháp lý được mở rộng hơn, bao gồm các nhóm:

- Người nghèo là người thuộc hộ chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật;

- Người có công với cách mạng;       

- Người già cô đơn, không nơi nương tựa là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc không có nơi nương tựa (sau sửa đổi thành người từ đủ 60 tuổi trở lên, sống cô đơn, không có nơi nương tựa).

- Người tàn tật không nơi nương tựa là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn hoặc là người bị nhiễm chất độc hoá học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm mất năng lực hành vi dân sự mà không có nơi nương tựa (sau sửa đổi thành người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn; người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV mà không có nơi nương tựa).

- Trẻ em không nơi nương tựa là người dưới 16 tuổi không nơi nương tựa.

- Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là người thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật.

- Các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

- Nạn nhân theo quy định của pháp luật phòng, chống mua bán người (được bổ sung theo quy định tại Nghị định số số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013).

c) Quy định quyền được trợ giúp pháp lý trong giai đoạn từ năm 2018 đến nay

Ngày 20/6/2017, Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, theo đó người được trợ giúp pháp lý đã mở rộng lên 14 nhóm đối tượng so với 06 nhóm đối tượng của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006. Việc mở rộng diện đối tượng trợ giúp pháp lý nêu trên đã thể hiện rõ nét chính sách nhân văn, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương, góp phần bảo đảm trong tiếp cận pháp lý và bình đẳng trước pháp luật. Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người được trợ giúp pháp lý gồm:

(1) Người có công với cách mạng;

(2) Người thuộc hộ nghèo;

(3) Trẻ em;

(4) Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;

(5) Người bị buộc tội từ đủ 16 đến 18 tuổi;

(6) Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo;

(7) Người có khó khăn tài chính thuộc các nhóm: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người và người nhiễm HIV. Theo Điều 2 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý thì điều kiện có khó khăn về tài chính là người thuộc hộ cận nghèo hoặc người đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định.

Việc xác định diện người được trợ giúp pháp lý cần phải dựa trên những nguyên tắc cụ thể, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật hiện hành và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Theo đó, việc quy định người được trợ giúp pháp lý cần dựa trên các nguyên tắc mang tính đặc thù của Việt Nam (chính sách của Đảng và Nhà nước về đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng, chính sách dân tộc, chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi bị buộc tội, chính sách chăm sóc và bảo vệ trẻ em) và bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý là trợ giúp đối với một số nhóm đối tượng yếu thế nhất trong xã hội có khó khăn về tài chính, không đủ khả năng chi trả thù lao cho dịch vụ pháp lý. Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc nêu trên, cần kế thừa đầy đủ các đối tượng đang được trợ giúp pháp lý theo pháp luật trợ giúp pháp lý hiện hành và các luật, bộ luật có liên quan, bảo đảm đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tính khả thi trong việc bảo đảm nguồn lực cho công tác trợ giúp pháp lý.

Người được trợ giúp pháp lý có 08 quyền sau1: quyền được trợ giúp pháp lý mà không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác; quyền tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý; quyền được thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý khi đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan nhà nước có liên quan; quyền yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc trợ giúp pháp lý; quyền lựa chọn 01 tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương trong danh sách được công bố; yêu cầu thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý khi người đó thuộc một trong các trường hợp không được tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc phải từ chối thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 25 Luật Trợ giúp pháp lý 2017; quyền thay đổi, rút yêu cầu trợ giúp pháp lý; quyền được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; quyền khiếu nại, tố cáo về trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Hiện nay, người thuộc diện được trợ giúp pháp lý có thể tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý thông qua nhiều cách thức khác nhau. Có thể kể đến một số cách thức sau đây:

1) Tự người dân biết đến dịch vụ trợ giúp pháp lý, trực tiếp đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước yêu cầu trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu;

2) Các cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý tổ chức các phương thức truyền thông để tiếp cận đến người dân (thông qua (i) việc tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo, các đợt truyền thông về trợ giúp pháp lý; (ii) tổ chức biên soạn và phát hành các tài liệu truyền thông và phát đến người dân như tờ rơi, tờ gấp pháp luật, cẩm nang, sách bỏ túi trợ giúp pháp lý hoặc các tài liệu truyền thông khác về trợ giúp pháp lý; (iii) hoạt động hỗ trợ thông tin về trợ giúp pháp lý giúp người dân nắm bắt được các thông tin, địa chỉ, số điện thoại của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý để liên hệ khi có yêu cầu trợ giúp; (iv) việc đặt bảng tin, hộp tin trợ giúp pháp lý được niêm yết công khai tại các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà tạm giam, tạm giữ…; (v) việc tổ chức xây dựng và phát hành các thông điệp, tiểu phẩm về trợ giúp pháp lý được xây dựng, phát hành trên đài truyền thanh VOV…; các phim ngắn diễn án, phóng sự, phỏng vấn về trợ giúp pháp lý được xây dựng, phát sóng trên các kênh truyền hình đa dạng; (vi) qua việc công bố công khai thông qua danh sách các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, các tin tức, video, bài viết… về TGPL được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam và các Trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

(3) Người dân được các cơ quan, người tiến hành tố tụng, các cơ quan nhà nước giải thích về quyền được TGPL, giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL thông qua hoạt động của mình. Hình thức này được thực hiện dựa trên các quy định Luật Trợ giúp pháp lý, Bộ luật Tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam… và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành

(4) Người dân được các tổ chức đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng như già làng, trưởng bản, trưởng thôn...  giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.

2. Thực trạng bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý tại Việt Nam hiện nay

a) Kết quả đạt được

Triển khai Luật TGPL năm 2017, đến nay các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là thực hiện vụ việc TGPL, qua đó triển khai hiệu quả quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân, nhất là trong các vụ việc tham gia tố tụng. Từ khi triển khai Luật (từ năm 2018 đến 6/2024), các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc đã cung cấp gần 213 nghìn vụ việc, trong đó hơn 120 nghìn vụ việc tham gia tố tụng (chiếm hơn 56,4%). Hằng năm, số lượng vụ việc tham gia tố tụng kết thúc tăng lên, cụ thể: năm 2018 là 11.860 vụ việc, năm 2019 là 13.428 vụ việc, năm 2020 là 16.168 vụ việc, năm 2021 là 20.868 vụ việc, năm 2022 là 21.276 vụ việc, năm 2023 là 25.506 vụ việc.

Về diện người được trợ giúp pháp lý, từ khi triển khai Luật TGPL đến nay, có khoảng 33 nghìn lượt người nghèo, 60,7 nghìn lượt người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, 24,5 nghìn người có công với cách mạng, 24 nghìn trẻ em, 12,8 nghìn người khuyết tật có khó khăn về tài chính.... được trợ giúp pháp lý miễn phí. Trong đó, có nhiều vụ việc thành công, hiệu quả được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận như người được trợ giúp pháp lý được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân... hoặc người được trợ giúp pháp lý được tăng mức bồi thường thiệt hại, đòi được quyền sử dụng đất...

Với kết quả đạt được là số lượng và chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao thì có thể nói rằng, thực sự trở thành công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Thông qua các vụ việc trợ giúp pháp lý đã khẳng định được vai trò của trợ giúp pháp lý trong việc giúp người yếu thế tiếp cận công lý, góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội, qua đó góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

b) Một số hạn chế, bất cập

Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, nhất là trước yêu cầu từ nhu cầu thực tiễn và yêu cầu của công tác cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo yêu cầu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, cụ thể như sau:

- Thực tế vẫn còn một số đối tượng thực sự có nhu cầu trợ giúp pháp lý, không có đủ điều kiện để sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí nhưng chưa được quy định là người thuộc diện trợ giúp pháp lý như nạn nhân bị mua bán, người trong quá trình xác định là nạn nhân bị mua bán, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 là bị hại trong vụ án hình sự không phân biệt có khó khăn về tài chính hay không; hộ mới thoát nghèo, người thuộc hộ nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, ngư nghiệp có mức sống trung bình, người khuyết tật bị buộc tội hoặc trường hợp khác thực sự có nhu cầu trợ giúp pháp lý nhưng chưa được quy định thuộc diện được trợ giúp pháp lý... Đồng thời, xét trong xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì có một vài diện người được trợ giúp pháp lý theo quy định hiện hành sẽ dần ít đi (ví dụ như người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn2, người thuộc hộ nghèo3,...).

- Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng vẫn còn thấp so với số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý và số lượng án xét xử trong toàn quốc4. Chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý còn chưa đồng đều. Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý do cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý đánh giá chưa được nhiều, công tác thẩm định, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý còn chưa được quan tâm đúng mức...

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên có thể kể đến như sau: một số quy định về diện người được trợ giúp pháp lý của Luật Trợ giúp pháp lý và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã và sẽ không còn phù hợp với tình hình thực tiễn trước yêu cầu mới về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bên cạnh đó, một bộ phận người dân vẫn chưa biết, chưa quan tâm đến quyền được trợ giúp pháp lý, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông đi lại khó khăn nên đã phần nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận của người dân với dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước.

3. Giải pháp hoàn thiện quy định về quyền được trợ giúp pháp lý theo tinh thần Nghị quyết của Đảng

Một trong những yêu cầu về công tác trợ giúp pháp lý tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là: “mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước” (mục 7 phần IV Nghị quyết). Tại Chương trình hành động của Chính phủ được ban hành kèm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 12/5/2023 triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 đã giao “Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tổ chức, đơn vị có liên quan tham mưu giúp Chính phủ hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan đến hoạt động tư pháp thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ;... mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước”.

Để triển khai nội dung nghiên cứu “mở rộng người được trợ giúp pháp lý”, trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện quy định quyền được trợ giúp pháp lý trong điều kiện kinh tế - xã hội mới của đất nước như sau:

Một là, trong quá trình sửa đổi Luật Phòng, chống mua bán người cần nghiên cứu, bổ sung quy định “Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người”, đồng thời bãi bỏ quy định nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người có khó khăn về tài chính tại điểm g khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý.

Hai là, trong quá trình xây dựng, ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên cần nghiên cứu quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi có quyền được trợ giúp pháp lý trong tố tụng tư pháp cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn phát triển của đất nước.

Ba là, sửa đổi Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, Luật Người cao tuổi, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) theo hướng bổ sung quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí cho người có công với cách mạng; người nhiễm HIV, người cao tuổi có khó khăn về tài chính theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.

Bốn là, nghiên cứu, đề xuất Luật Người khuyết tật theo hướng mọi người khuyết tật trong tố tụng tư pháp, không phân biệt người có khó khăn về tài chính hay không đều có quyền được trợ giúp pháp lý.

Năm là, đề nghị nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng mở rộng điều kiện có khó khăn về tài chính của nhóm người quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý. Cụ thể, bổ sung thêm các đối tượng: người thuộc hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình làm nông nghiệp, diêm nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, người lao động có thu nhập thấp, người có khó khăn đột xuất... được trợ giúp pháp lý miễn phí khi có nhu cầu giúp đỡ pháp luật...

Sáu là, về lâu dài, khi sửa đổi Hiến pháp năm 2013 có thể nghiên cứu, đề xuất đưa quyền được trợ giúp pháp lý trong bào chữa khi họ không đủ khả năng thuê luật sư trở thành một trong những quyền cơ bản của công dân nhằm góp phần bảo đảm công bằng trước công lý. Trước đây, bản dự thảo Hiến pháp năm 2013 sửa đổi bản Hiến pháp năm 1992 khi lấy ý kiến toàn dân đã có nội dung về quyền được trợ giúp pháp lý, nhưng sau đó chưa được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Do đó, về lâu dài, khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã phát triển hơn thì việc nghiên cứu, xem xét đưa nội dung được trợ giúp pháp lý miễn phí trong quyền bào chữa khi họ không đủ khả năng thuê luật sư trở thành một quyền cơ bản của công dân là phù hợp.

Bảy là, ngoài ra, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 còn có nội dung “Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện”. Chính phủ cần nghiên cứu, triển khai nội dung này theo hướng giao một bộ, ngành cụ thể đảm nhiệm trách nhiệm này, bởi vì đây là trách nhiệm của Nhà nước đối với nhóm người dễ bị tổn thương trước tố tụng, giúp họ bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Kết luận

Từ những quy định trên trong các văn bản trợ giúp pháp lý, có thể thấy rằng Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm đến quyền con người, quyền công dân và quyền tiếp cận công lý của người dân, trong đó có nhóm “dễ bị tổn thương”, yếu thế như người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số... Các quy định về diện người được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ và nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Do đó, để góp phần bảo đảm được quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật, pháp luật trợ giúp pháp lý cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, nhất là các quy định về diện người được trợ giúp pháp lý và các quy định khác nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của công dân./.

ThS. Trịnh Thị Thanh

Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 39 (08/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Điều 8 Luật TGPL năm 2017

(2) Tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/10/2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2025 phấn đấu có 50% số xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn.

(3) Tại Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18/01/2022 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 đã đặt ra mục tiêu đến 2025 phấn đấu giảm ½ số hộ nghèo và hộ cận nghèo so với đầu kỳ theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia.

(4) Ước tính có khoảng 45 triệu người thuộc diện được TGPL (Báo cáo số 141/BC-BTP ngày 14/7/2021).

 Năm 2023 số vụ việc Tòa án nhân dân các cấp thụ lý là 606.209 vụ việc, trong đó vụ việc được giải quyết là 540.490 vụ việc (theo Báo cáo về công tác của Tòa án nhân dân năm 2023).