Tiếp cận dựa trên quyền con người là một phương thức tiếp cận hiện đại dựa trên những nguyên tắc, tiêu chuẩn của pháp luật nhân quyền quốc tế trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Bài viết này sẽ trình bày các vấn đề lý luận về nhân quyền và mối tương quan của nó trong luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng; thực trạng tiếp cận quyền con người trong hoạt động giảng dạy tại Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đề xuất áp dụng quy trình thực thi tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng.

Với dân số 98,17 triệu người, trong đó có đến 69 triệu người sử dụng internet, tương đương với 70% dân số, Việt Nam đang là nước đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet. Tỷ lệ này là cao hơn so với trung bình của khu vực khá nhiều và đạt được 80% so với các nước phát triển. (Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử: E-Government Development Index – EGDI, 2020 của Liên hợp quốc trích từ Nhandan.vn). Thực tế cho thấy, xu hướng số hóa hay chuyển đổi số đã xuất hiện ở mọi lĩnh vực; là xu thế của thời đại. CNTT mang lại nhiều lợi ích như cải thiện khả năng sáng tạo, dịch vụ, an toàn, lối sống, giúp giải quyết vấn đề,.. nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều lo lắng và quan ngại (tác động tiêu cực đến quyền tự chủ, quyền riêng tư và các quyền và tự do cơ bản của con người) (OECD, 2019). Quyền truy cập Internet ngày càng được coi là một quyền con người mới nổi; các tổ chức quốc tế và chính phủ các quốc gia đã bắt đầu chính thức công nhận tầm quan trọng của nó đối với quyền tự do ngôn luận, biểu đạt và trao đổi thông tin (SCHMITT, 2017). Chính vì sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của CNTT, có rất nhiều rủi ro diễn ra trên nền tảng số mà người sử dụng đều có thể gặp phải. Ranh giới giữa vi phạm và không vi phạm quyền tự do thông tin, quyền tự do ngôn luận, quyền bảo mật dữ liệu cá nhân là không có nhiều khoảng cách.

Quyền con người là giá trị chung của nhân loại, được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quan trọng của Liên hợp quốc (United Nations Sustainable Development Group: USDG, nd). Quan tâm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong các văn bản luật pháp. Bởi vì quyền con người có tính ứng dụng và ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội nên nhu cầu kiến thức về vấn đề này ngày càng được nâng cao. Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, giáo dục quyền con người là “vấn đề cơ bản để giải quyết các nguyên nhân cơ bản của vi phạm nhân quyền, ngăn chặn các vi phạm nhân quyền, chống phân biệt đối xử, thúc đẩy bình đẳng, và tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình ra quyết định dân chủ và chỉ có con đường giáo dục nhân quyền mới có thể thực hiện được mục tiêu đó” (dẫn theo Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2013). Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ vai trò của giáo dục nhân quyền trong tiến trình phát triển của đất nước, định hướng và triển khai các hoạt động giáo dục nhân quyền trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Giáo dục nhân quyền được thực hiện ở tất cả các cấp học từ tiểu học lên đến đại học thông qua các môn học đạo đức, giáo dục công dân và được lồng ghép vào chương trình dạy học. Tuy nhiên, đối với cấp đại học, giáo dục nhân quyền chủ yếu được nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học đào tạo các chuyên ngành về các lĩnh vực xã hội như: luật, khoa học chính trị, quan hệ quốc tế… (Đinh Thị Thương, 2016)

Ngoài ra, do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan, hoạt động giáo dục, đào tạo về quyền con người ở nước ta còn nhiều hạn chế. Đó là sự hiểu biết và phương pháp giảng dạy nhân quyền chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu những vấn đề về nhân quyền còn hạn chế, các nội dung truyền đạt chưa đầy đủ, chưa có văn bản chính thức nào của Đảng, Nhà nước ghi nhận phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người dẫn đến việc vận dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định chính sách chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả (Lê Xuân Tùng, 2020); thiếu kiến thức về quyền, không biết cách tự bảo vệ các quyền hợp pháp; thiếu ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ công dân dẫn đến sự vi phạm các quyền hợp pháp của người khác hoặc của cộng đồng,...là những vấn đề cần quan tâm khi hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức của toàn xã hội về quyền con người. Trước thực tế đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 34/CT-TTg về tăng cường thực hiện Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì thế, với vai trò là đơn vị đào tạo hàng đầu về CNTT, Trường ĐH CNTT - ĐHQG.HCM cần nghiên cứu để tạo cơ hội cho sinh viên được tiếp cận quyền con người trong chương trình dạy học nói chung và đặc biệt là trong giảng dạy luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng.

Các câu hỏi nghiên cứu chính của bài báo là: Tiếp cận quyền con người trong mối quan hệ với luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh là gì? Thực trạng thực hiện giảng dạy luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng theo tiếp cận con người tại Trường ĐH CNTT như thế nào và làm cách nào chúng ta có thể thúc đẩy khả năng tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng?

1. Khái niệm tiếp cận quyền con người

a) Quyền con người là gì?

Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, và vì vậy theo UNESCO có khoảng gần 50 định nghĩa khác nhau về định nghĩa quyền con người được công bố. Trong đó, định nghĩa phổ biến thường được trích dẫn bởi nhiều nhà nghiên cứu là định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR, 2016). Theo đó, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Ngoài ra còn có các định nghĩa khác như sau: Quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người; là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế (dẫn theo Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, 2011). Mỗi định nghĩa được tiếp cận từ một góc độ nhất định, nhưng nhìn chung đều đề cập đến quyền và tự do cơ bản thuộc về mọi người trên thế giới, từ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Đó là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế (Hội đồng Anh, 2000) và có 4 tính chất đặc trưng (Vũ Công Giao, 2019; Australian Human Rights Commission: AHRC, nd; Brander, Witte, Ghanea, Gomes, Keen, Nikitina & Pinkeviciute, 2020): 1) tính phổ biến (universal): là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt; 2) tính không thể tước bỏ (inalienable): không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện; 3) tính không thể phân chia (indivisible): các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào; và 4) tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau.

b) Tiếp cận quyền con người là gì?

Theo OHCHR phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người (Human Rights-Based Approach, được viết tắt là HRBA) là “...một khung khái niệm đối với quá trình phát triển con người dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người và được thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người”. Đây được xem là quan niệm chính thống, tương đối toàn diện và thường được trích dẫn rộng rãi. Với quan điểm này, tiếp cận HRBA nhằm mục đích bảo đảm các quyền con người trên hai phương diện: (1)  Nội dung quyền con người và cách thức thực thi quyền con người: chú trọng tới những quy trình, cách thức lựa chọn để đạt được những mục tiêu đó. (2) “lấy các tiêu chuẩn về quyền con người làm cơ sở để xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc về quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được kết quả đó” (OHCHR, 2006; UN dẫn theo Lê Xuân Tùng, 2020); là cách tiếp cận khẳng định các quyền, lợi ích và tự do vốn có của các chủ thể hưởng quyền (rights holders), đồng thời chỉ ra nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý tương ứng của các chủ thể có nghĩa vụ (duty bearers) (Nguyễn Thị Dung, 2020; Nguyễn Duy Sơn & Trần Thị Hòe, 2013)

Các chi tiết của cách tiếp cận nhân quyền sẽ khác nhau tùy thuộc vào bản chất của tổ chức có liên quan và các vấn đề mà tổ chức đó giải quyết. Tuy nhiên, các nguyên tắc chung đã được xác định là các nguyên tắc "PANEL" (National Human Rights Institutions: NHRIs, nd): Sự tham gia (Participation); Trách nhiệm giải trình (Accountability); Không phân biệt đối xử và bình đẳng (Non-Discrimination and Equality); Trao quyền (Empowerment) và Tính hợp pháp (Legality)

2. Mối quan hệ giữa quyền con người, luật sở hữu trí tuệ và luật an ninh mạng

a) Mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ với quyền con người

Điều 4, Luật sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 quy định quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa 2 quyền này, Helfer (2003) đã đề cập cả 2 khía cạnh sự xung đột và giao thoa giữa quyền con người và SHTT nói chung theo hai hướng tiếp cận cơ bản: (i) Tiếp cận từ sự xung đột: cách tiếp cận này cho rằng, việc bảo hộ quyền SHTT sẽ khiến giảm đi mức độ hưởng thụ của các quyền con người trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa; (ii) Tiếp cận từ sự hòa hợp, được hình thành trên cơ sở xác định phạm vi thích hợp và hài hòa giữa quyền của cá nhân tạo. Tại Điều 27 (2) Công ước UDHR đã đưa vào nội dung “Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình” và tại Điều 15 (1) (c) của Công ước ICESCR quy định “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận mọi người đều có quyền: Được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình” (dẫn theo Nguyễn Văn Phúc, 2022). Ngoài ra khi xét trên khía cạnh bản chất thì quyền con người được thể hiện thông qua việc hưởng lợi ích từ thành quả sáng tạo khoa học, kỹ thuật (quyền SHTT). Điều này xuất phát từ thuộc tính cơ bản của quyền con người là “quyền tự nhiên” (phát sinh trên cơ sở những mưu cầu tự nhiên về tinh thần, vật chất và mang tính hiển nhiên).

Quyền sở hữu trí tuệ và quyền con người là hai hệ thống khác biệt và tương đối độc lập, tuy nhiên ở một mức độ nhất định, hai hệ thống này lại có những mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu trí tuệ được công nhận là quyền con người trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Tại Hội thảo “Quyền SHTT và quyền con người” do Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) phối hợp với Văn phòng Cao ủy về nhân quyền của Liên hợp quốc tổ chức năm 1998 đã thảo luận xoay quanh các vấn đề về nguồn gốc và sự phát triển, quyền SHTT với quyền văn hóa, quyền SHTT với sức khỏe con người, quyền SHTT với các tri thức truyền thống và những quan điểm về nhân quyền trong SHTT, tiến bộ khoa học và tiếp cận các lợi ích từ khoa học, từ đây có thể khẳng định mối quan hệ thống nhất giữa hai chế định này trong hệ thống pháp luật.

b) Mối quan hệ giữa luật an ninh với quyền con người

Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Luật gồm 7 chương, 43 điều quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan an ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng (Quy định tại Khoản 1, 2 Điều 2 của Luật).

Nội dung của Luật An ninh mạng phù hợp với tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về quyền con người của Đại hội đồng Liên hợp quốc (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và các văn bản khác có liên quan, phù hợp với Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự Việt Nam (Cao Đức Thái & Vũ Trọng Lâm, 2019). Các quy định của Luật An ninh mạng trực tiếp bảo vệ 05 quyền con người, bao gồm: Quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ; Quyền không bị can thiệp vào đời tư, gia đình, chỗ ở hoặc thư tín; Quyền không bị xâm hại danh dự hay uy tín cá nhân; Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của công dân; Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của công dân.

Vấn đề về quyền con người trong bảo mật thông tin?

Khi nói về quyền con người, chúng ta chủ yếu đề cập đến những quyền được đảm bảo theo Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (UDHR) của Liên hợp quốc (UN) và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), bao gồm quyền tự do ngôn luận, quyền riêng tư, tự do quan điểm và tự do hiệp hội (freedom of expression, freedom of speech, the right to privacy, freedom of opinion, and freedom of association) là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Vào năm 2011, UN cho rằng sự xuất hiện của Internet như một nền tảng mới để thể hiện các quyền cơ bản của con người. Các báo cáo viên tự do ngôn luận từ Châu Âu, Châu Mỹ Latinh và Châu Phi đã ký một tuyên bố chung xác nhận rằng “quyền tự do ngôn luận áp dụng cho Internet” (freedom of expression applies to the Internet). Vào tháng 7 năm 2012, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc xác nhận thêm rằng “các quyền tương tự mà mọi người có khi ngoại tuyến cũng phải được bảo vệ trực tuyến” (Rossini & Green, nd). Điều này có nghĩa là tuyên bố nhân quyền được đề cập trước đây của UDHR, ICCPR có thể áp dụng cho Internet.

Cũng tương tự như Luật sở hữu trí tuệ, Luật an ninh mạng cũng có những khía cạnh xung đột nhất định với quyền con người, làm sao để đảm bảo sự cân bằng giữa an ninh và nhân quyền bởi vì an ninh luôn được xem là điều kiện tiên quyết để được hưởng các quyền con người nhưng không coi trọng quyền con người như một điều kiện tiên quyết của an ninh. Để giải quyết khoảng cách này, Hiệp hội Truyền thông Tiến bộ (APC 2020) định nghĩa cách tiếp cận dựa trên quyền con người đối với an ninh mạng là đặt con người vào trung tâm và đảm bảo rằng có sự tin cậy và bảo mật trong các mạng và thiết bị giúp củng cố, thay vì đe dọa, an ninh con người. Cách tiếp cận như vậy là có hệ thống, có nghĩa là nó giải quyết các khía cạnh công nghệ, xã hội và pháp lý cùng nhau, và không phân biệt giữa lợi ích an ninh quốc gia và an ninh của Internet toàn cầu.

Kovacs và Hawtin (2013) cho rằng an ninh mạng không nên chỉ đóng vai trò phòng thủ, mà phải đóng vai trò tạo điều kiện, bằng cách đặt một cách hiệu quả việc trao quyền và hạnh phúc của con người làm trung tâm. Những cách tiếp cận này phù hợp nhất với những thách thức mới do không gian mạng đưa ra vì: 1- giúp hiểu được quyền con người và an ninh có mối quan hệ với nhau và kết nối với nhau như thế nào; 2- họ phản ánh tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT-TT đối với cuộc sống của con người (Pavlova, 2020)

(Còn nữa)

NCS. Lê Thị Phương

Trường Đại học Công nghệ Thông tin, ĐHQG-HCM

-----

Tài liệu tham khảo

  1. AHRC. (nd). An Introduction to Human Rights. Retrieved September 12, 2022, from https://humanrights.gov.au/our-work/education/introduction-human-rights
  2. Brander, P.,  Witte, L, D.,  Ghanea, N.,  Gomes, R., Keen, E., Nikitina, A., & Pinkeviciute, J. (2nd edition, 2020). COMPASS Manual for Human Rights Education with Young People. Retrieved September 5, 2022, from https://rm.coe.int/compass-eng-rev-2020-web/1680a08e40
  3. Cao Đức Thái & Vũ Trọng Lâm. (2019). Luật An ninh mạng - một bảo đảm quan trọng trong thực thi quyền con người. Truy xuất ngày 08/09/2022 từ http://m.tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/luat-an-ninh-mang-mot-bao-dam-quan-trong-trong-thuc-thi-quyen-con-nguoi-13080.html
  4. Đinh Thị Thương. (2016). Giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Truy xuất ngày 12/09/2022 tại https://truongchinhtri.binhthuan.dcs.vn/Tin-tuc/post/15907/giao-duc-nang-cao-nhan-thuc-ve-quyen-con-nguoi-o-viet-nam-hien-nay
  5. HCHR. (2016). Frequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva. Retrieved September 7, 2022, from https://www.ohchr.org/sites/default/files/Documents/Publications/FAQen.pdf
  6. Helfer, L. (2003). Human rights and intellectual property: conflict or coexistence?. Minnesota Intellectual Property Review, 5(1), 47-61.
  7. Hội đồng Anh. (2000). Giáo dục quyền công dân và giáo dục quyền con người: các khái niệm và tranh luận chính, Tập 1.
  8. Lê Xuân Tùng. (2020). Thực tiễn vận dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định chính sách phát triển ở Việt Nam. Tạp chí Lý luận chính trị, 12, 90-96.
  9. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao & Lã Khánh Tùng. (2012). Hỏi đáp về quyền con người. Hà Nội: NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội
  10. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao & Lã Khánh Tùng. (2011). Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
  11. Nguyễn Duy Sơn & Trần Thị Hòe. (2013). Tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định và thực thi chính sách ở Việt Nam. Truy xuất ngày 6/9/2022 tại http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/595-tiep-can-dua-tren-quyen-con-nguoi-trong-hoach-dinh-va-thuc-thi-chinh-sach-o-viet-nam.html
  12. Nguyễn Thị Dung. (2020). https://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/tiep-can-dua-tren-quyen-con-nguoi-trong-viec-xay-dung-thuc-hien-phap-luat-ve-quyen-cua-nhom-de-bi-ton-thuong-thuc-trang-va-kien-nghi-190409.html
  13. Nguyễn Thị Thu Thuỷ. (2013). Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. (Luận văn Thạc sỹ). Đại học Quốc gia Hà Nội.
  14. Nguyễn Văn Phúc. (2022). Miễn trừ quyền sở hữu trí tuệ vắc xin Covid-19 tiếp cận theo quyền được chăm sóc sức khỏe của cộng đồng. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 8 (456), 44-53.
  15. Nhân dân. LHQ xếp hạng về Chính phủ điện tử: Việt Nam tăng 2 bậc. Truy xuất ngày 09/09/2022 tại https://nhandan.vn/lhq-xep-hang-ve-chinh-phu-dien-tu-viet-nam-tang-2-bac-post608578.html
  16. NHRIs. (nd). Human rights- based approach. Retrieved September, 5, 2022, from https://ennhri.org/about-nhris/human-rights-based-approach/
  17. OECD. (2019). Recommendation of the Council on Artificial Intelligence. Retrieved September 10, 2022, from 22/05/2019. https://legalinstruments.oecd.org/en/instruments/OECD-LEGAL-0449.
  18. Pavlova, P. (2020). Human Rights-based Approach to Cybersecurity: Addressing the Security Risks of Targeted Groups. Peace Human Rights Governance, 4(3), 391-4
  19. Rossini, C., & Green, N. (nd). Cybersecurity and human rights. Retrieved September 13, 2022, from https://www.gp-digital.org/wp-content/uploads/2015/06/GCCS2015-Webinar-Series-Introductory-Text.pdf
  20. Schmitt, M. (2017). Tallinn Manual 2.0 on the International Law Applicable to Cyber Operations. Retrieved September 13, 2022, from https://assets.cambridge.org/97811071/77222/frontmatter/9781107177222_frontmatter.pdf
  21. Thịnh Anh. (2017). Vấn đề quyền con người trong chính sách về sở hữu trí tuệ. Truy xuất ngày 08/09/2022 tại https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2231
  22. UNDG. (nd). Rights Based Approach to Development Cooperation Towards a Common Understanding Among UN Agencies. Retrieved September, 6, 2022, from www.undg.org/archive_docs/6959-The_Human_Rights_Based_Approach_to_Development_Cooperation_Towards_a_Common_Understanding_among_UN.pdf
  23. UNFPA. (2010). A human rights- based approach to programming: Practical implementation manual and training materials. Retrieved from https://www.unfpa.org/sites/default/files/resource-pdf/hrba_manual_in%20full.pdf
  24. UNSDG. (nd). Principle One: Human Rights-Based Approach. Retrieved September, 6, 2022, from https://unsdg.un.org/2030-agenda/universal-values/human-rights-based-approach
  25. Vũ Công Giao & Ngô Minh Hương (đồng chủ biên). (2014). Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý luận và thực tiễn. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
  26. Vũ Công Giao. (2019). Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người và khả năng áp dụng vào hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật ở việt nam hiện nay. Nghiên cứu lập pháp, 18(394), 3-11.