Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích các quyền con người của bị cáo trong giai đoạn xét xử theo luật quốc gia và quốc tế. Từ đó, tác giả  đưa ra đánh giá về những hạn chế trong việc bảo đảm thực hiện các quyền con người của bị cáo trong giai đoạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quyền này trong luật tố tụng hình sự hiện nay

Mở đầu

Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử là một đòi hỏi quan trọng trong việc xây dựng một nền tư pháp công bằng. Xét xử là giai đoạn thứ ba trong quy trình tố tụng hình sự, đưa ra phán quyết đối với người bị buộc tội, đồng thời đi kèm là hình phạt sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước lên người bị buộc tội. Chính vì vậy bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử là một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết và là yêu cầu cơ bản trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Tòa án nhân dân huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử vụ án hình sự trực tuyến. 
Nguồn: tapchitoaan.vn.

1. Quyền con người của bị cáo trong giai đoạn xét xử theo luật quốc gia và quốc tế

Quyền con người được hiểu theo cách chung đó là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”1. Căn cứ theo định nghĩa này thì quyền con người của bị cáo trong xét xử có thể xem là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong hoạt động xét xử. Trong giai đoạn xét xử quyền con người của bị cáo được thể hiện ở các quyền sau:

Quyền bình đẳng trước pháp luật và Tòa án

Quyền này được pháp luật quốc tế tiếp cận ở 02 nội dung chính đó là: (i) quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; (ii) quyền bình đẳng trước Tòa án và được đối xử bình đẳng bởi Tòa án.

Ở nội dung thứ nhất, quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Quyền này ở phạm vi phổ quát nhất bảo đảm cho tất cả mọi người được bình đẳng trước pháp luật mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Tuy nhiên, vẫn có sự đối xử khác biệt có thể chấp nhận được (permissible differentiation) nếu nó hợp lý và khách quan (reasonable and objective) và nhằm mục đích để xóa bỏ sự phân biệt đối xử trên thực tế2.

Về nội dung thứ hai, quyền này có thể được hiểu tất cả mọi người được quyền tiếp cận bình đẳng với Tòa án, được một toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng và không có sự phân biệt đối xử với các bên tham gia tố tụng (phiên tòa)3.

Quyền bình đẳng trước pháp luật và Tòa án được quy định tại Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 1 Điều 14 và khoản 1 Điều 16 khẳng định “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và “các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đó là “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân” (Điều 8) và “Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật” (Điều 9). Điều này được hiểu theo luật tố tụng hình sự là bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo trình tự thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; mọi công dân có địa vị pháp lý như nhau và có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau, áp dụng pháp luật như nhau, đối xử như nhau.

Quyền được xét xử bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được thành lập theo luật

Ở khía cạnh luật pháp quốc tế, quyền này được thể hiện ở 04 nội dung sau: (i) quyền được xét xử bởi một Tòa án có thẩm quyền; (ii) quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập; và (iii) quyền được xét xử bởi một Tòa án không thiên vị, (iv) quyền được xét xử bởi một Tòa án được thành lập theo luật4. Quyền được xét xử bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được thành lập theo luật thể hiện qua việc Tòa án xét xử phải có thẩm quyền tài phán đối với vụ việc và được thành lập trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành. Đồng thời cơ quan Tòa án và người tiến hành xét xử phải độc lập với các cơ quan khác và những người khác trong việc ra quyết định dựa trên chứng cứ khách quan và phù hợp với luật.

Ở khía cạnh pháp luật Việt Nam, quyền này được thể hiện tại Hiến pháp năm 2013 với các nội dung sau: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102) và Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 103). Ở phạm vi luật tố tụng hình sự quyền này được thể hiện thông qua nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng” (Điều 21) và “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 23)

Quyền được xét xử công bằng, công khai

Quyền này là một quyền về thủ tục hơn là quyền nội dung, và được củng cố bằng một số quyền theo thủ tục (due process rights) khác, bao gồm: (i) quyền được giả định vô tội; (ii) quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị bảo vệ cho mình; (iii) quyền được xét xử mà không bị trì hoãn; (iv) quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ; (v) quyền được gọi và chất vấn nhân chứng; (vi) quyền không buộc phải chứng minh mình vô tội; (vii) quyền kháng cáo; và (viii) quyền được bảo vệ không bị hồi tố trong luật hình sự5. Cùng quan điểm trên, TS. Nguyễn Trần Như Khuê cho rằng “Nội dung quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội gồm tổ hợp những quyền tối thiểu mà người bị buộc tội thực hiện hoặc bảo đảm thực hiện để được xét xử công bằng. Tuy nhiên hiện nay các nghiên cứu ở nước ngoài chủ yếu tiếp cận nội dung quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội theo UDHR (Điều 10), ECHR (Điều 6) và ICCPR (Điều 14)6. Tác giả cũng đồng tình với các quan điểm trên khi cho rằng quyền được xét xử công bằng là một khác niệm chung có tiền đề từ nhiều quyền và nguyên tắc tố tụng, trong đó nổi bật nhất là tập hợp các quyền bình đẳng.

Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, vấn đề này được bảo đảm trước hết bởi nguyên tắc cơ bản Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 26); nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 21). Ngoài ra, còn được bảo đảm bởi các quy định có liên quan về thẩm quyền xét xử (Điều 268, 273); thành phần Hội đồng xét xử (Điều 254), về các quyền của bị cáo để bảo đảm hoạt động xét xử được vô tư, độc lập như quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, quyền kháng cáo, quyền khiếu nại… (Điều 61), nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 9); nguyên tắc bảo đảm tranh tụng (Điều 26); nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự)7.

Quyền được suy đoán vô tội (hay giả định vô tội)

Quyền này được pháp luật quốc tế ghi nhận với quy định: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ” hay “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”8. Quyền này được thể hiện ở giai đoạn xét xử với các quyền chủ yếu sau: (i) bị cáo phải được coi là vô tội cho tới khi lỗi của họ được chứng minh; (ii) việc truy tố và xét xử phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định; (iii) mọi hoài nghi về lỗi của bị cáo cần được giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo.

Pháp luật Việt Nam tiếp cận quyền này tại các quy định tại Điều 31(2) Hiến pháp năm 2013 và Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với nội dung: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Trong nguyên tắc tố tụng hình sự Việt Nam thì người bị buộc tội chỉ coi là có tội khi thỏa mãn cả hai yếu tố đó là phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, theo nguyên tắc trên thì khi chưa chứng minh được hành vi phạm tội theo thủ tục tố tụng hình sự và chưa có bản án có hiệu lực của Tòa thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là có tội, do đó họ vẫn phải được bảo đảm hầu hết các quyền công dân của họ.

Quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội

Quyền này được hiểu theo nghĩa không có sự can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp hay áp lực tâm lý từ các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người bị tình nghi hay bị cáo nhằm ép họ nhận tội và được luật pháp quốc tế ghi nhận với nội dung: “Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội”9. Quyền này cũng được xem như là một phạm trù của quyền im lặng bởi lẽ sự im lặng có nghĩa là không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Tuy nhiên quyền im lặng lại không được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế (cụ thể là ICCPR) và luật Việt Nam mà chỉ được ghi nhận trong trong Quy chế Rome tại điểm b khoản 2 Điều 55 (viết tắt là Điều 55(2)(b)) với nội dung người bị buộc tội “được quyền giữ im lặng và sự im lặng đó không bị coi là một lý do để xác định có tội hay vô tội”.

Về pháp luật Việt Nam, quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội đã được ghi nhận cụ thể tại các quy định về quyền của người bị buộc tội tại các Điều 58(1)(d); 59(2)(c); 60(2)(d) và 61(2)(h) của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đó là cho phép người bị buộc tội được phép “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.

Quyền không bị xét xử hồi tố và không bị xét xử hai lần về cùng hành vi

Quyền không bị xét xử hồi tố được ghi nhận đầy đủ trong các văn bản pháp luật quốc tế với nội dung “Không ai bị coi là phạm tội hoặc có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành (tại thời điểm thực hiện hành vi đó)”10 và quyền không bị xét xử hai lần về cùng hành vi là quyền “Không bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án”11.

Tiếp cận từ góc độ pháp luật Việt Nam, mặc dù quyền không bị xét xử hồi tố chưa được ghi nhận nhưng quyền không bị xét xử hai lần về cùng hành vi được ghi nhận đầy đủ trong Điều 31(3) Hiến pháp năm 2013 và Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với việc khẳng định “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”

Quyền được xét xử không chậm trễ

Quyền này bảo đảm cho người bị buộc tội được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý nhằm khôi phục nhanh chóng địa vị pháp lý của họ trong trường hợp họ vô tội. Pháp luật quốc tế ghi nhận quyền này bằng việc trao cho người bị buộc tội quyền “được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý” và “Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra toà án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do”12.

Trong pháp luật Việt Nam quyền này đã được ghi nhận tại Điều 31(2) Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tại Điều 25 với nguyên tắc “Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai” và được cụ thể hóa các thời gian xét xử thông qua các Điều 277 (quy định rõ thời gian chuẩn bị xét xử); Điều 297 (quy định thời gian hoãn phiên tòa); Điều 346 (quy định thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm); Điều 462 (quy định thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm)...

Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa

Theo đó, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người bào chữa và được thông báo về quyền này. Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án phải chỉ định một luật sư miễn phí cho bị cáo, để đảm bảo lợi ích của công lý13. Để thực hiện quyền bào chữa hoặc nhờ người bào chữa cần bảo đảm các quyền: (i) quyền được tiếp xúc với luật sư; (ii) quyền có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị cho việc bào chữa14; (iii) quyền thu thập chứng cứ; (iv) quyền bình đẳng và (v) quyền có mặt và được tranh tụng tại tòa.

Quyền được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp được pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 103(7) Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tại các Điều 16 với nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” và một chương riêng (chương V) bao gồm 13 điều quy định về nội dung bào chữa. Ngoài ra, để bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những quy định về quyền của bị cáo, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như: Được biết lý do mình bị bắt, tạm giữ, bị khởi tố; được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo luật; được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu chứng minh không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc phải thừa nhận mình có tội (Điều 59); quyền tham dự phiên tòa (Điều 61); gặp, hỏi người bị buộc tội; có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ; xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; được thay đổi người tiến hành tố tụng...

Quyền có mặt tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm

Việc bị cáo có mặt tại phiên xét xử15 sẽ là điều kiện để cho bị cáo được thực hiện quyền bào chữa và tham gia tranh tụng tại tòa. Sự xét xử vắng mặt bị cáo chỉ được áp dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt sau khi đã tiến hành các biện pháp hợp lý khác mà không có hiệu quả, và chỉ được áp dụng trong thời hạn cần thiết16. Kế thừa quan điểm này, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định tại Điều 61(2)(b) với quyền được tham gia phiên tòa; Điều 290 (sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa); Điều 351 (sự có mặt của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp).

Quyền gọi và chất vấn nhân chứng

Quyền này cho phép bị cáo “được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà và thẩm vấn họ tại toà với những điều kiện tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình17. Đây là quyền với nội hàm tương tự quyền bào chữa, quyền được tranh tụng bởi lẽ quyền gọi nhân chứng và chứng vấn nhân chứng giúp cho bị cáo và người bào chữa của họ có thêm chứng cứ để thực hiện bào chữa và tranh luận tại phiên tòa. Đồng thời, quyền này cũng là một biểu hiện của nguyên tắc bình đẳng về phương tiện (equality of arms) giữa các bên tham gia tranh tụng; bảo đảm người bị buộc tội có quyền yêu cầu sự có mặt, đối chứng và kiểm tra chéo với nhân chứng của mình giống với nhân chứng mà bên buộc tội đưa ra. Quyền gọi và chất vấn nhân chứng trong giai đoạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam được quy định Điều 61(2)(i) trong các quyền của bị cáo với nội dung “Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa” và tại Điều 73(1)(m) về quyền của người bào chữa được “Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa”. Bên cạnh đó, quyền chất vấn nhân chứng của bị cáo và người bào chữa cho họ còn được pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam bảo đảm qua việc quy định nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa tại các Điều 322 (tranh luận tại phiên tòa) và Điều 26 (nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm).

Quyền có thông dịch viên và dịch thuật

Quyền được có thông dịch và dịch thuật là quyền cơ bản nhất giúp cho người bị buộc tội hiểu được các nội dung trong hoạt động tố tụng bởi vì nếu người bị buộc tội không hiểu được ngôn ngữ sử dụng tại phiên tòa thì họ không thể thực hiện được tất cả các quyền khác mà pháp luật trao cho họ. Theo đó, nếu người bị buộc tội không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên tòa, họ có quyền có phiên dịch miễn phí18. Về quyền quyền có thông dịch viên và dịch thuật được pháp luật tố tụng hình sự  Việt Nam quy định cụ thể và hiến định thành một trong các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng đó là nguyên tắc “Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự” (Điều 29) với việc cho phép “…Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có phiên dịch” và các quy định về người phiên dịch (Điều 70) với yêu cầu Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

2.  Một số hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người của bị cáo trong giai đoạn xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, về quyền có mặt của bị cáo tại phiên tòa. Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị cáo cùng phạm tội, nếu cho xét xử vắng mặt một vài bị cáo, rất có thể các bị cáo có mặt sẽ đổ hết tội cho bị cáo vắng mặt để làm giảm nhẹ tội mà không có sự đối chất. Vì vậy, theo tác giả cần có thêm những đánh giá và phân tích trong trường hợp này, có thể quy định tách thành vụ án riêng dành cho các bị cáo vắng mặt bởi vì chính sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa là để thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.

Thứ hai, về quyền chất vấn và tranh luận tại phiên tòa. Tại các Điều 309, 310, 311 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị cáo có quyền hỏi bị hại, nguyên đơn dân sự, người làm chứng ....nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Như vậy, quyền đặt câu hỏi của bị cáo vẫn bị hạn chế là phụ thuộc vào sự đề nghị hỏi của bị cáo có được Chủ tọa phiên tòa đồng ý cho phép hỏi hay không, theo tác giả cần mở rộng hơn nữa quyền hỏi của bị cáo, chỉ nên giới hạn Chủ tọa phiên tòa chỉ được cắt những câu hỏi của bị cáo khi xét thấy những câu hỏi đó lặp lại hoặc không liên quan đến tình tiết vụ án.

Thứ ba, về quyền được tư vấn pháp luật và tiếp xúc Luật sư. Để bảo đảm được quyền của bị cáo trong xét xử, tác giả kiến nghị nên bổ sung Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền của bị cáo. Cụ thể, cần bổ sung quyền được tư vấn pháp luật và tiếp xúc với Luật sư trong quá trình xét xử và trong quá trình tạm giam chờ xét xử. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung thêm quyền được ghi chép những số liệu, tài liệu trong quá trình xét hỏi.

Thứ tư, về quyền của người bào chữa: theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa là Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; hoặc Bào chữa viên nhân dân... Để thực hiện triệt để nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo theo tác giả không nên quy định người bào chữa là một người nào cụ thể mà nên mở rộng cho tất cả mọi người. Chính quy định “bất cứ người nào” đã cho phép mở rộng để mọi người có thể tham gia bào chữa cho bị cáo. Vì vậy, nên quy định người bào chữa là bất cứ ai do bị cáo nhờ hoặc Tòa án chỉ định đều có quyền bào chữa nếu biết hoặc liên quan đến vụ án, chỉ loại trừ những trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ năm, về quy định sự có mặt của người bào chữa. Theo nguyên tắc xét xử thì bên bào chữa được đặt ngang hàng và bình đẳng với bên buộc tội nhưng tại Điều 289 Bộ luật Tố tụng hình sự  năm 2015 quy định về sự có mặt của Kiểm sát viên đó là trường hợp không có mặt của Kiểm sát viên thì phải hoãn phiên tòa, trong khi đó nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Quy định như vậy vô hình trung đề cao tầm quan trọng của bên buộc tội hơn bên bào chữa trong quá trình xét xử, từ đó sẽ dẫn đến quyền bào chữa và nguyên tắc tranh tụng không được thực hiện triệt để. Theo tác giả thay vì cho phép xét xử vắng mặt người bào chữa, pháp luật nên quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với những trường hợp người bào chữa cố tình vắng mặt lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan để hạn chế sự lo ngại người bào chữa cố tình kéo dài thời gian xét xử, thậm chí áp dụng hình thức kỷ luật trước liên đoàn (cấm hành nghề có thời hạn, phạt tiền...cho những trường hợp này với lý do vi phạm nghĩa vụ của Luật sư), đồng thời Tòa án ra lệnh tước quyền bào chữa và yêu cầu bồi hoàn chi phí cho bị cáo.

Thứ sáu, về quyền được xét xử bởi một Tòa án đúng thẩm quyền, độc lập và không thiên vị. Để thực hiện các quyền này trước hết phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình xét xử. Hiện nay mô hình tố tụng ở Việt Nam vẫn thiên về kiểm soát tội phạm và pha trộn giữa mô hình tố tụng thẩm vấn lẫn tranh tụng nên tư duy pháp lý này vẫn còn tồn tại việc Tòa án có thẩm quyền thu thập chứng cứ (Điều 252(6) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Quy định này làm cho Tòa án ngoài chức năng xét xử còn có chức năng đi tìm chứng cứ (có thể là chứng cứ buộc tội) thì quá trình xét xử sẽ không bảo đảm công bằng. Quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án (Điều 153(4) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), việc Tòa án vừa có chức năng khởi tố, xong rồi lại xét xử chính vụ án mình khởi tố vô hình trung như vừa đá bóng vừa thổi còi cũng sẽ khó bảo đảm được khách quan hay thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và trong quá trình xét xử. Theo tác giả, để đưa Tòa án về đúng chức năng của mình, bảo đảm sự độc lập trong xét xử và cũng phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội cần loại bỏ các quy định nêu trên bởi lẽ việc thiếu chứng cứ buộc tội hay bỏ lọt tội phạm là trách nhiệm của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, không thể bắt bị cáo phải kéo dài thời gian xét xử để chờ sự hoàn thiện về chứng cứ để buộc tội mình. Mặt khác việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung các chứng cứ hay khởi tố vụ án của Tòa án làm cho Tòa án có ý chí kết tội bị cáo ngay từ đầu (thông thường việc trả hồ sơ nhằm để Viện kiểm sát hoàn thiện thêm chứng cứ) nên quá trình ra phán quyết của Tòa án ít nhiều sẽ thiếu sự công bằng.

Bên cạnh đó, sự độc lập của Tòa án còn được thể hiện qua việc phân công Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa, cụ thể tại Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định quyền hạn của Chánh án có quyền phân công Hội thẩm. Chính quy định này làm cho Hội thẩm ít nhiều phụ thuộc vào ý chí của Chánh án Tòa án. Mặt khác, quy định được quyền phân công Hội thẩm nên Chánh án và Thẩm phán thường có xu hướng lựa chọn những Hội thẩm “hợp ý” với mình để cùng tham gia vào Hội đồng xét xử nên sẽ dễ dẫn đến nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật bị vi phạm. Theo tác giả nên sửa đổi Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để chuyển sang cho Hội đồng nhân dân có quyền phân công Hội thẩm19 hoặc thực hiện hình thức bốc thăm ngẫu nhiên trong danh sách các Hội thẩm có sẵn để lựa chọn tham gia phiên tòa như các nước đã áp dụng20.

Kết luận

Quyền con người của bị cáo trong tố tụng hình sự nói chung và xét xử nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và được Đảng, nhà nước luôn quan tâm, chú trọng. Việc nghiên cứu các quyền hiến định của con người nói chung và quyền con người của bị cáo nói riêng để đề xuất các giải pháp mang tính khoa học từ đó đi đến hoàn thiện pháp luật là nhiệm vụ cấp bách và góp phần bảo vệ hơn nữa quyền con người trong tư pháp hình sự nói riêng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung.

ThS. Nguyễn Anh Hoàng

NCS. Khoa Pháp luật hình sự, Đại học Luật Hà Nội

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2023

-----

Tài liệu trích dẫn

(1) Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 38.

(2) Điều 7 Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người (Universal Declaration of Human Rights - UDHR); Điều 2(1), 3 và 26 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR); Điều 27 Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế.

(3) Điều 10 UDHR; Điều  2(1), 14(1), 14(3) ICCPR; Nguyên tắc 5 của Các nguyên tắc Bangalore về hành xử tư pháp (Bangalore Principles of Judicial Conduct, 2002).

 (4) Điều 10 UDHR; Điều 9(3), 14(1) ICCPR; Những Nguyên tắc cơ bản về Tư pháp độc lập (Basic Principles on the Independence of the Judiciary, 1985); Nguyên tắc 4(14), 4(15), 5, 6(3), 6(4) của Các nguyên tắc Bangalore.

(5) Vũ Công Giao, Nguyễn Thị Thùy Dung (2016), Quyền con người trong giai đoạn xét xử theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10(314) tháng 5/2016

(6) Nguyễn Trần Như Khuê (2022), Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật TpHCM, tr.49

(7) Nguyễn Trần Như Khuê (2022), Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, sdđ, tr.54

(8) Điều 11(1) UDHR; Điều 14(2) ICCPR; Điều 66 Quy chế Rome.

(9) Điều 14(3)(g) ICCPR; Điều 55(1), 67(1)(g) Quy chế Rome.

(10) Điều 11(2) UDHR; Điều 15 ICCPR; Điều 22, 23, 24 Quy chế Rome.

(11) Điều 14(7) ICCPR; Điều 20 Quy chế Rome.

(12) Điều 9(3), 9(4), 14(3)(c) ICCPR; Điều 67(1)(c) Quy chế Rome.

(13) Điều 11(1) UDHR; Điều 14(3)(d) ICCPR; Điều 55(2)(c), 67(1)(d) Quy chế Rome; các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư (Basic Principles on the Role of Lawyer, 1990).

(14) Điều 14(3)(b) của ICCPR

(15) Điều 14(3)(d) ICCPR; Điều 63 Quy chế Rome.

(16) Điều 63(2) Quy chế Rome.

(17) Điều 14(3)(e) ICCPR; Điều 67(1)(e) Quy chế Rome.

(18) Điều 14(3)(f) ICCPR; Điều 67(1)(f) Quy chế Rome.

(19) Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu (Điều 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Do đó, việc phân công Hội thẩm tham gia xét xử cũng nên chuyển sang cho Hội đồng nhân dân (hoặc các cơ quan phụ trách của Hội đồng nhân dân) cũng là hợp lý

(20) Hội thẩm được lựa chọn theo hình thức ngẫu nhiên để mang tính khách quan như hình thức bốc thăm giống như pháp luật các nước Nga, Pháp hoặc cơ chế bồi thẩm đoàn trong pháp luật Mỹ (Nguyễn Đăng Dung, Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 20(276), tháng 10/2014).