Giáo dục đại học nói chung, giáo dục quyền con người (QCN) trong giáo dục đại học (GDĐH) nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, nhằm trang bị hệ thống kiến thức, thái độ và kỹ năng cần thiết về QCN cho sinh viên, học viên. Để thực hiện tốt mục tiêu này, việc xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH ở Việt Nam cần quán triệt các quan điểm cơ bản.
(Tiếp theo Kỳ 1)
3. Xác định nội dung, phương pháp quyền con người trong đào tạo đại học cần chú trọng đảm bảo tính liên thông của giáo dục, đào tạo
Giáo dục nói chung, giáo dục QCN trong GDĐH nói riêng là một quá trình/giai đoạn trong hệ thống giáo dục quốc dân, do vậy, cần chú trọng tính liên thông trong xây dựng chương trình, nội dung kiến thức, phương pháp truyền tải… đảm bảo tính kế thừa, phát triển.
Thuật ngữ “liên thông” có thể hiểu là “nối liền với nhau giữa nhiều thành phần hoặc bộ phận riêng rẽ”[1]. Với quan niệm đó, tính liên thông chỉ sự kết nối liền mạch với nhau giữa nhiều thành phần trong một hệ thống, tạo thành một tổng thể thống nhất trong sự phát triển. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bảo đảm tính liên thông là đòi hỏi tất yếu bởi kiến thức, kỹ năng trang bị cho người học là một quá trình từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ trực quan đơn giản đến tư duy trừu tượng… Giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng không nằm ngoài quy luật đó. Việc cung cấp kiến thức, kỹ năng về QCN cho người học cần có một quá trình, trong đó đòi hỏi có sự khớp nối, kế thừa và phát triển cả về nội dung lẫn phương pháp giáo dục từ bậc học đầu tiên (mầm non) cho đến bậc học cao nhất (đại học, sau đại học).
Tính liên thông của giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, trong GDĐH nói riêng cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, nội dung, phương pháp giáo dục QCN cho từng cấp học phải phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng tiếp thu, điều kiện thực hành cũng như thích hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của người học. Điều này đòi hỏi dung lượng kiến thức, phương pháp truyền tải QCN vào từng cấp học phải tính toán sao cho không quá sức nhưng cũng không dưới tầm tư duy của người học. Đối với bậc đại học và sau đại học, đây là bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, đào tạo đội ngũ trí thức trong tương lai của đất nước, là lực lượng lao động có tri thức cao, vì vậy kiến thức về QCN được đưa vào giảng dạy cần: i) lựa chọn những nội dung có tính chuyên sâu hơn về QCN so với bậc học phổ thông; ii) cập nhật những quan điểm, lý thuyết (về mặt lý luận) cũng như các quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam (về mặt pháp lý) về QCN; chú trọng việc cung cấp một cách kịp thời thực tiễn tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm QCN ở Việt Nam; iii) Đưa ra những định hướng, gợi mở nghiên cứu cho sinh viên, học viên về những vấn đề QCN đang được cộng đồng quốc tế quan tâm;… Tương ứng, phương pháp giáo dục QCN cho đối tượng này cần chú trọng các phương pháp giảng dạy hiện đại, lấy sinh viên, học viên làm trung tâm, khuyến khích tự học, tự nghiên cứu.
Thứ hai, tỷ lệ kiến thức QCN trong khối lượng kiến thức/kỹ năng chung của từng cấp học cần đảm bảo tính hài hoà, tránh tình trạng quá nhiều (gây quá tải hoặc ảnh hưởng đến khối kiến thức khác) hoặc quá ít (không đạt được mục tiêu của giáo dục QCN). Điều này là một thách thức ở tất cả các cấp học, trong đó, đối với bậc đại học thì các trường không thuộc các nhóm chuyên luật, hành chính, nội chính khá khó khăn trong việc đảm bảo yêu cầu này. Trong GDĐH, sinh viên, học viên phải tiếp thu một dung lượng rất lớn kiến thức, kể cả các kiến thức chung lẫn tri thức từng chuyên ngành đào tạo. Vì thế, khi xác định nội dung giáo dục QCN cho các trường này cần lồng ghép một cách hợp lý vào các môn học chung và một số môn học chuyên ngành, sao cho kiến thức và kỹ năng về QCN đủ để sinh viên, học viên có thể vận dụng trong thực tiễn lĩnh vực công tác của họ sau khi tốt nghiệp mà không quá tham vọng (vì như vậy ảnh hưởng đến các môn học/học phần khác), nhưng cũng không quá sơ sài, chiếu lệ.
Thứ ba, bảo đảm tính khớp nối, liên tục, có sự kế thừa, phát triển trong xây dựng chương trình, nội dung cũng như áp dụng phương pháp giáo dục QCN giữa các cấp học từ thấp đến cao. Đây là yêu cầu quan trọng nhất, cốt yếu nhất và khó khăn nhất của việc đảm bảo tính liên thông của giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục quốc dân. Điều này đặt ra đòi hỏi khắt khe là phải tránh việc lặp lại các kiến thức đã học, đồng thời cũng tránh tình trạng “ngắt quãng” trong thiết kế các kiến thức về QCN trong hệ thống giáo dục. Kiến thức, kỹ năng về QCN được trang bị ở lớp học/cấp học dưới là tiền đề cho việc triển khai kiến thức, kỹ năng cho lớp học/cấp học sau. Và đòi hỏi cao hơn là lớp học/cấp học sau phải có cái mới trong kiến thức và sự sáng tạo trong phương pháp giáo dục, tạo sức hấp dẫn, cuốn hút người học. Do vậy, khi xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH cần nghiên cứu kỹ các nội dung đã đưa vào chương trình học tập và các phương pháp đã được áp dụng trong giảng dạy ở các bậc học trước, nhất là bậc phổ thông trung học, là cấp học liền trước GDĐH. Chỉ khi đảm bảo được tính liên tục, kế thừa, phát triển trong xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH thì mới tạo được sự hào hứng và đón nhận tích cực của sinh viên, học viên.
Thứ tư, tính liên thông của giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục đòi hỏi sự liền mạch, thống nhất trong các cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, nhưng lại phải có sự khác biệt trong đào tạo ở cấp đại học. Điều này xuất phát từ đặc thù của cấp học đại học, đó là đào tạo ngành, nghề theo nhu cầu của từng sinh viên. Mỗi nhóm ngành, nghề lại có đặc thù riêng về mục tiêu của sản phẩm đầu ra, do đó, kiến thức/kỹ năng về QCN cũng cần có sự phù hợp với từng lĩnh vực đào tạo. Chẳng hạn, đối với khối đào tạo chuyên ngành luật thì giáo dục QCN đòi hỏi một khối lượng lớn và chuyên sâu, trong khi đó, đối với các trường không chuyên luật thì dung lượng kiến thức về QCN chỉ cần xây dựng với mức độ vừa phải. Bên cạnh đó, tuỳ ngành nghề đào tạo mà nhóm kiến thức về QCN nào cần được cung cấp cũng cần bảo đảm tính thích hợp. Chẳng hạn, đối với sinh viên ngành kinh tế như Quản trị kinh doanh, Tài chính – Ngân hàng, Kế toán... thì các quyền liên quan đến hoạt động kinh doanh cần được ưu tiên trong nội dung giáo dục của cơ sở đào tạo; đối với sinh viên ngành Y hay sinh viên ngành Công tác xã hội... thì các quyền liên quan đến quyền sống, quyền của trẻ em, quyền của người khuyết tật, quyền được hưởng các phúc lợi xã hội, quyền và nghĩa vụ của người lao động,… cần được ưu tiên trong đào tạo.
Ở nước ta, những năm gần đây đã dần đưa hoạt động giáo dục QCN vào trong các chương trình của bậc tiểu học đến bậc trung học phổ thông và đại học. Đối với học sinh tiểu học, môn học Đạo đức đã bao gồm các bài học nhằm hướng dẫn các em tôn trọng người khác như: tôn trọng khách nước ngoài, tôn trọng thư từ, tài sản của người khác (Lớp 3); tôn trọng phụ nữ (Lớp 5)[2]… Ở cấp trung học cơ sở, số lượng bài học về QCN trong chương trình học đã nhiều hơn, các bài học chứa đựng những kiến thức rộng và sâu hơn về QCN. Cụ thể, các bài học về QCN trong môn học Giáo dục công dân được thiết kế có các bài: Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em; Công dân nước CHXHCN Việt Nam; Quyền và nghĩa vụ học tập; Quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (đối với lớp 6); Quyền được chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam; Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo; Nhà nước CHXHCN Việt Nam (đối với lớp 7); Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình; Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác; Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân; Quyền tự do ngôn luận (đối với lớp 8); Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân; Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế; Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân; Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân (đối với lớp 9)[3]. Ở cấp trung học phổ thông, môn học Giáo dục công dân mang tính lý thuyết và tính khái quát khá cao, nhiều nội dung tương đối trừu tượng với lứa tuổi thiếu niên. Chương trình Lớp 10 có đề cập đến một số nghĩa vụ của công dân nhưng chủ yếu từ khía cạnh đạo đức - đối với cộng đồng, Tổ quốc. Lớp 11 có các bài: Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các kiến thức về quyền con người tập trung nhiều hơn ở chương trình giáo dục công dân. Lớp 12, theo đó học sinh được tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến quyền công dân như bài Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự, các quyền trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể như đất đai, thuế, hành chính…[4] Như vậy, đến giai đoạn giáo dục QCN trong GDĐH cần xây dựng chương trình, nội dung sao cho vừa kế thừa những nội dung mà sinh viên đã được học ở các cấp học phổ thông, vừa có bước phát triển mới phù hợp với lứa tuổi, khả năng nhận thức cũng như nhu cầu của sinh viên.
Về mặt phương pháp, do sinh viên đại học đã có bước ngoặt lớn về nhận thức và khả năng học tập so với học sinh phổ thông, do vậy, cần có những cách thức mới trong truyền tải QCN đến đối tượng này. Với sinh viên các trường đại học, khả năng tiếp cận về mặt nội dung QCN (tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ) cũng như tương tác về mặt phương pháp (tự học, làm việc nhóm, khả năng thuyết trình,…) đã có những bước thay đổi lớn, do đó, khi xác định các cách thức truyền tải QCN cho nhóm đối tượng này cần chú trọng thúc đẩy năng lực tự nghiên cứu; khả năng sáng tạo; tính chủ động, linh hoạt… Như vậy, bên cạnh giảng dạy QCN trên giảng đường, tại địa điểm thực tập/thực hành nghề nghiệp,… thì cần cung cấp cho sinh viên, học viên các định hướng tự nghiên cứu, hệ thống tài liệu, học liệu v.v.. để họ tự tìm hiểu, thực hành các kiến thức, kỹ năng về QCN cần thiết, phù hợp với họ.
4. Cần chú trọng phối hợp với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong quá trình xác định nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người trong giáo dục đại học
Giáo dục QCN nói chung, giáo dục QCN trong GDĐH nói riêng là hoạt động cần có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau nhằm khai thác một cách tối đa các nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Xu thế GDĐH hiện nay là gắn giữa đào tạo lý thuyết và thực hành, giữa học trên giảng đường và học qua thực tiễn hoạt động của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Cụ thể, trong quá trình học ở các trường đại học, sinh viên có thể có các hoạt động kiến tập, thực tập (chẳng hạn sinh viên khối sư phạm kiến tập ở các trường học; sinh viên ngành y thực tập ở bệnh viện; sinh viên ngành luật thực tập tại các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát;…). Đặc điểm này đặt ra đòi hỏi, khi xây dựng kiến thức về QCN và lựa chọn phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH, các cơ sở đào tạo có thể kết nối với các “đối tác” của nhà trường để một mặt, nghiên cứu đưa vào chương trình đào tạo những nội dung nào về QCN là phù hợp nhất cho sinh viên trường mình, mặt khác, thiết kế cách cách thức, biện pháp hiệu quả nhất để truyền tải kiến thức, kỹ năng QCN cho sinh viên khi tham gia các hoạt động thực hành. Khi đó, chủ thể xác định (và tổ chức thực hiện) nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH không chỉ là các trường đại học, viện nghiên cứu mà còn bao gồm cả các cơ sở khác tham gia vào quy trình đào tạo, giáo dục, đặc biệt là các đơn vị nơi sinh viên, học viên có các hoạt động thực tập/thực hành. Điều này cũng góp phần thực hiện quan điểm chỉ đạo được đề cập trong Quyết định số 1309/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, đó là phải “bảo đảm tính thực tiễn” và “phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo”. Thực hiện quan điểm này đặt ra đòi hỏi rất lớn về sự nhận thức và khả năng phối hợp giữa các bên trong việc lựa chọn nội dung, xác định phương pháp giáo dục QCN cho sinh viên, học viên. Bên cạnh đó, cũng cần có các biện pháp giám sát chặt chẽ để đảm bảo các nội dung, phương pháp này được áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn, tránh tình trạng qua loa, hình thức.
5. Cần nắm bắt sâu sắc sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá để có sự linh hoạt, thích hợp trong việc xác định nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người trong giáo dục đại học
Đất nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào quan hệ quốc tế và khu vực. Quá trình hội nhập vừa đem lại những thời cơ to lớn cho phát triển đất nước nói chung, cho giáo dục, trong đó có giáo dục QCN trong GDĐH nói riêng, song cũng đặt ra không ít thách thức đòi hỏi phải được nhận diện một cách đầy đủ, toàn diện để có các giải pháp phù hợp.
Những năm gần đây, ngoài việc tham gia các công ước cốt lõi của Liên hợp quốc về QCN, Việt Nam cũng đã và đang tham gia nhiều công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương – CPTPP, Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu – EVFTA…). Vì thế, việc xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH ở Việt Nam phải nắm bắt một cách sâu sắc, toàn diện các nội dung của các công ước, hiệp định này, nhất là khía cạnh liên quan đến QCN để truyền tải cho sinh viên. Bên cạnh đó, cần trang bị cho sinh viên kỹ năng để có thể ứng xử thích hợp với các quy định của các định chế pháp lý quốc tế này khi tốt nghiệp và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong tương lai.
Tuy nhiên, khối lượng các văn kiện pháp lý quốc tế về QCN và nội dung của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là rất lớn, do vậy, cần phải lựa chọn những nội dung cốt yếu nhất để giảng dạy cho sinh viên. Đồng thời, cần sử dụng các phương pháp giáo dục linh hoạt, sáng tạo để sinh viên tự nghiên cứu, tự thực hành về QCN (như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu nội dung của các công ước quốc tế về QCN cũng như các nội dung liên quan của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới).
Giáo dục QCN nói chung, giáo dục QCN trong GDĐH nói riêng ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn đan xen. Việc quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm trên là trách nhiệm của không chỉ các cơ sở GDĐH mà là của xã hội, trực tiếp là các cơ quan quản lý nhà nước về GDĐH nói riêng, quản lý nhà nước về giáo dục nói chung. Trên cơ sở các quan điểm này, cần có các phương hướng, giải pháp cụ thể, mang tính đồng bộ, khả thi để góp phần nâng cao hiệu quả của việc xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong GDĐH ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Chú trọng tham khảo, vận dụng kinh nghiệm quốc tế trong việc xác định nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người trong giáo dục đại học
Giáo dục QCN nói chung, trong GDĐH nói riêng từ lâu đã là mối quan tâm sâu sắc của Liên hợp quốc và của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong Tuyên bố của Liên hợp quốc về giáo dục và đào tạo quyền con người do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào năm 2011, đặt ra đòi hỏi giáo dục QCN nói chung, trong giáo dục đại học phải bao gồm:
+ Giáo dục về quyền con người (education about human rights), bao gồm cung cấp kiến thức và sự hiểu biết về các quy tắc và nguyên tắc về nhân quyền, các giá trị nền tảng của quyền con người và các cơ chế bảo vệ quyền con người;
+ Giáo dục thông qua quyền con người (education through human rights), bao gồm việc học tập và giảng dạy theo cách thức tôn trọng các quyền của cả người dạy và người học;
+ Giáo dục vì quyền con người (education for human rights), bao gồm việc trao quyền cho mọi người để có thể thụ hưởng và thực thi các quyền của họ và để tôn trọng và phát huy các quyền của người khác.
Bên cạnh đó, Liên hợp quốc cũng có nhiều chỉ dẫn quan trọng cho việc triển khai nội dung, phương pháp giáo dục QCN nói chung, trong GDĐH nói riêng.
Trên cơ sở chỉ dẫn của Liên hợp quốc, nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước có giàu kinh nghiệm trong giáo dục QCN đã có các cách thức khá phong phú, hiệu quả trong xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN trong giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Là nước đi sau, Việt Nam cần chủ động, tích cực nghiên cứu, học tập và vận dụng các chỉ dẫn của Liên hợp quốc cũng như kinh nghiệm của các quốc gia, đặc biệt là những nước có đặc điểm tương đồng, để xây dựng các nội dung, lựa chọn các phương pháp phù hợp trong giáo dục QCN ở tất cả các bậc học, trong đó có bậc đại học. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, giáo dục QCN là vấn đề khá phức tạp, còn tương đối mới mẻ đối với Việt Nam, do vậy, việc tham khảo, học hỏi và áp dụng kinh nghiệm quốc về giáo dục quyền con người trong GDĐH cần tính đến yếu tố phù hợp với bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù của đất nước nói chung, cũng như đặc điểm, tính chất, trình độ, năng lực,… của GDĐH ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, có thể xây dựng những nguyên tắc chung trong việc vận dụng, bên cạnh đó, cần tạo sự tự chủ/chủ động cho các cơ sở đào tạo linh hoạt khi tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong việc xác định nội dung, phương pháp giáo dục QCN phù hợp với bản sắc của trường mình./.
PGS.TS. Lê Văn Trung
Viện Quyền con người
[1] http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn, truy cập ngày 30/7/2021
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vở bài tập Đạo đức 3 và Đạo đức 5, NXB Giáo dục, 2017
[3]Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 6, Giáo dục công dân 7, Giáo dục công dân 8, Giáo dục công dân 9, NXB Giáo dục, 2017.
[4]Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 10, Giáo dục công dân 11 và Giáo dục công dân 12, NXB Giáo dục, 2017