Tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng là yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật tiến bộ. Đây chính là cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền lợi và tạo điều kiện cho phụ nữ được phát huy năng lực toàn diện. Bài viết đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về tôn trọng, công nhận, bảo vẹ bảo đảm quyền của phụ nữ, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.

Ảnh minh họa. Nguồn: tcnn.vn

Đặt vấn đề: Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội, góp phần không thể thiếu vào sự phát triển của đất nước. Để khẳng định vị thế và quyền lợi cho phụ nữ, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hệ thống pháp luật nhằm tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì thực tiễn bảo đảm về pháp lý đối với quyền của phụ nữ còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết. Do đó, hoàn thiện pháp luật nhằm tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ trên thực tiễn được coi là xu hướng tất yếu, là việc làm cần thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn của Việt Nam hiện nay.

  1. Một số vấn đề lý luận

a) Khái niệm quyền của phụ nữ

Những lý thuyết đầu tiên về quyền của phụ nữ xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX cùng với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế, xã hội, chính trị... và những đòi hỏi về bình đẳng pháp lý, chính trị của phụ nữ diễn ra tại nhiều nước phương Tây. Năm 1981, nhà nghiên cứu Hosken Fran P nhận định: “Nữ quyền, tức quyền nữ giới hay quyền của phụ nữ, là các quyền lợi bình đẳng giới được khẳng định là dành cho phụ nữ và trẻ em gái trong nhiều xã hội trên thế giới… Các quyền này khác biệt với các khái niệm rộng hơn về quyền con người thông qua các nhận định về thành kiến truyền thống và lịch sử cố hữu chống lại việc thực hiện quyền của phụ nữ và trẻ em gái trong khi thiên vị nam giới và trẻ em trai” [4; tr.5]. Trên tinh thần đó, từ điển Cambridge cũng ghi nhận: “Quyền của phụ nữ là quyền của phụ nữ được đối xử công bằng với đàn ông trên các khía cạnh của đời sống xã hội” [1]. Cả hai khái niệm này đều khẳng định quyền của phụ nữ là quyền bình đẳng của phụ nữ, đấu tranh chống lại tình trạng phân biệt đối xử, sự bóc lột trong gia đình, xã hội.

Nhìn nhận từ góc độ pháp lý, Tuyên bố Viên và Chương trình hành động, 1993 đã khẳng định rằng quyền của phụ nữ là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của các quyền con người phổ biến. Phụ nữ cũng như nam giới được hưởng đầy đủ các quyền cơ bản như quyền được sống, quyền tự do và quyền bình đẳng về mọi mặt. Tuy nhiên, người phụ nữ với những đặc điểm gắn liền với giới tính tự nhiên thì ngoài quyền con người nói chung, họ còn có những quyền gắn với thiên chức của mình như quyền làm mẹ, quyền được bảo vệ với tư cách là nhóm người dễ bị tổn thương [3; tr.55]. Bài viết này tiếp cận theo khía cạnh tự nhiên, pháp lý khi quyền của phụ nữ là quyền tự nhiên, vốn có của phụ nữ, được bảo vệ và thực thi thông qua các hành động pháp lý trên thực tế. Nó góp phần thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tiềm năng của mình, đóng góp vào sự phát triển chung của cộng đồng, quốc gia và cả thế giới.

Thông qua đó, có thể định nghĩa: “Quyền của phụ nữ là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của phụ nữ, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế”.

b) Pháp luật – công cụ quan trọng trong tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ

“Quyền con người không phải là một nhân tố đầu tiên có trước Nhà nước mà phải bằng pháp luật Nhà nước ghi nhận và thiết định mới trở thành hiện thực” [8; tr.18]. Quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng một mặt mang tính chất tự nhiên (quyền tự nhiên), người ta sinh ra đã có các quyền đó, nhà nước không thể không ghi nhận nhưng mặt khác khi chưa được nhà nước, pháp luật ghi nhận thì “các quyền tự nhiên” chưa có điều kiện trở thành hiện thực. Hay nói cách khác, chỉ có pháp luật mới là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền con người, quyền của phụ nữ. Ngay tại Lời nói đầu Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người 1948 cũng đã xác định nguyên tắc có tính chất khái quát về quyền con người như sau: “Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,… Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,…”. Vì thế, Luật nhân quyền quốc tế quy định các nghĩa vụ mà các quốc gia phải bảo đảm. Cụ thể, khi trở thành thành viên của các điều ước quốc tế, các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm ràng buộc nhằm tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng.

Có thể thấy rằng, cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Vấn đề coi trọng quyền của phụ nữ không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân mà còn là tôn chỉ hoạt động, là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta. Qua đó, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật về tôn trọng, công nhận, bảo vệ và bảo đảm quyền của phụ nữ.

2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về tôn trọng, công nhận, bảo vệ bảo đảm quyền của phụ nữ

a) Những kết quả đạt được

Ngay từ những văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, quyền của phụ nữ đã được khẳng định và đề cao. Sự phát triển của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền phụ nữ cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức về vị trí và vai trò của phụ nữ trong cộng đồng nhân loại. Đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện hiệu quả mục tiêu “tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước” [2] chính là minh chứng thiết thực nhất trong xây dựng hệ thống pháp luật tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ, là tiền đề để thực hiện các cam kết quốc tế. Thành tựu cơ bản như sau:

Thứ nhất, xác định quyền của phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội

Bảo đảm quyền của phụ nữ là điều kiện tiên quyết để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và phát triển bền vững. Đây là nền tảng để thực hiện các quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng một cách hiệu quả, đồng thời thúc đẩy sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân và cá nhân.

Nhìn chung, quyền của phụ nữ Việt Nam ngày càng được phát triển qua các bản Hiến pháp, các quyền cơ bản đó bao gồm: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền bầu cử và ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ, quyền tự do kinh doanh; quyền được báo đảm an sinh xã hội; quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền kết hôn, ly hôn; quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh;...

Ngoài ra, quyền của phụ nữ theo quy định của Hiến pháp được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật như: Luật Bình đẳng giới năm 2006, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014,...

Như vậy, Việt Nam đã có một hệ thống khung pháp lý khá đầy đủ để đảm bảo quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực dân sự - chính trị, kinh tế - xã hội - văn hoá. Điều này cho thấy quyền của phụ nữ là một trong những trọng tâm của chính sách, pháp luật ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, ghi nhận sự bình đẳng của phụ nữ với nam giới và trách nhiệm của các chủ thể trong đảm bảo bình đẳng giới

Là thành viên của Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW), Việt Nam đã thể chế hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, hay nói cách khác là nội luật hoá các quy định của công ước quốc tế trở thành các quy phạm trong Hiến pháp, các bộ luật, luật và các văn bản pháp luật khác.

Hiến pháp năm 2013 tại khoản 1 Điều 26 đã khẳng định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Phấn đấu bình đẳng giới không chỉ đảm bảo mục tiêu phát triển hài hoà mà là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền của phụ nữ. Trên tinh thần đó, một số văn bản pháp luật như: Luật Quốc tịch năm 2008, Luật Giáo dục năm 2019, Bộ luật Lao động năm 2019, Bộ luật Dân sự năm 2015... và các chính sách của Nhà nước Việt Nam trên mọi lĩnh vực đều thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam, nữ, không có sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào.

Một trong mốc quan trọng, đánh dấu sự quyết tâm của Nhà nước trong sự nghiệp đấu tranh cho bình đẳng giới và bảo vệ quyền của phụ nữ là sự ra đời của Luật Bình đẳng giới năm 2006. Với 6 chương, 44 điều, Luật đã khái quát được tất cả những lĩnh vực mà pháp luật bảo đảm để thực hiện sự bình đẳng giới và bảo vệ phụ nữ là: bình đẳng trong lĩnh vực chính trị; kinh tế; lao động; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao; y tế và bình đẳng trong gia đình. Đồng thời, Luật còn đề cập đến các biện pháp đảm bảo thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới. Đặc biệt Luật đã đưa vào những nội dung rất mới như quy định về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 21), thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới (Điều 22)... Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được xem là biện pháp chiến lược để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, phù hợp với đặc thù của mỗi giới; bảo đảm bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ.

Thứ ba, đảm bảo sự thụ hưởng quyền của phụ nữ trên cơ sở giới

So với nam giới, phụ nữ luôn là đối tượng phải chịu nhiều yếu tố bất lợi, thiệt thòi hơn bởi những đặc điểm phái tính vốn có của mình. Bên cạnh đó, phụ nữ còn phải đối mặt với nhiều vấn đề khác như sức khỏe sinh sản hay bất bình đẳng trong điều kiện tiếp xúc văn hóa - xã hội. Do đó, khoản 2 Điều 26 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận về phía nhà nước, xã hội, gia đình không chỉ chăm lo mà có trách nhiệm tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt.

Đặc biệt trong một số lĩnh vực đặc thù như lao động, sản xuất, phụ nữ phải đối mặt với nhiều trở ngại trong công việc do phải thực hiện thiên chức làm vợ, làm mẹ. Bộ luật Lao động năm 2019 đã dành một chương (Chương X) quy định riêng đối với lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp họ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Cùng với đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã quy định những quyền lợi mang tính đặc thù hơn cho phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khoẻ yếu.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã phát triển nguyên tắc bảo vệ quyền của phụ nữ ở một bước cao hơn: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện chức năng cao quý của người mẹ”. Với tư cách là người mẹ, người vợ, phụ nữ có quyền ưu tiên được tạo điều kiện để phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội (được bảo hộ hôn nhân và gia đình, quyền lợi của người mẹ và trẻ em; được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, thực hiện kế hoạch hóa gia đình).

Cũng xuất phát từ thiên chức làm mẹ của phụ nữ cũng như thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, trong xử lý tội phạm là nữ giới đã khẳng định phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử, không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Có thể thấy, bên cạnh yếu tố “bình đẳng” thì quyền của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn thể hiện cả yếu tố “ưu tiên”. Điều này giúp xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, sự phân biệt đối xử nữ giới trong công việc, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và vai trò, vị thế của phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội ngày càng được phát huy.

Thứ tư, ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi xâm phạm quyền của phụ nữ

Bảo vệ quyền của phụ nữ là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện rõ trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng, đặc biệt là sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật về quyền phụ nữ ngày càng được hoàn thiện. Nhiều văn bản luật, pháp lệnh mới được ban hành hoặc sửa đổi để phù hợp với thực tiễn xã hội, đảm bảo bảo vệ tối đa quyền lợi cho phụ nữ theo tinh thần tại khoản 3 Điều 26 Hiến pháp năm 2013: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Các quy định pháp luật này bao quát nhiều lĩnh vực, từ ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử, xâm phạm danh dự, nhân phẩm phụ nữ, bảo vệ hạnh phúc gia đình đến phòng, chống bạo lực gia đình. Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022, Luật Bình đẳng giới năm 2006, Bộ luật Hình sự năm 2015 là những ví dụ điển hình cho cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ. Những hành vi xâm hại đến sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự cũng cản trở phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đều phải chịu những chế tài nghiêm khắc. Hành vi phạm tội đối với phụ nữ có thai cũng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như tăng nặng định khung. Những quy định đã góp phần tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội, từ đó thúc đẩy sự phát triển bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ.

b) Hạn chế

Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của phụ nữ, song thực trạng hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập trong việc triển khai luật vào thực tiễn.

Thứ nhất, sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong các quy định về bảo đảm quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này đã gây trở ngại cho việc thực thi, áp dụng pháp luật trên thực tế. Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã liệt kê các hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới trong các lĩnh vực cơ bản, tuy nhiên còn thiếu lĩnh vực rất quan trọng đó là quan hệ gia đình đã được Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định tại Điều 18. Bên cạnh đó, Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 2015 mới mô tả hẹp hành vi xâm hại quyền bình đẳng của phụ nữ, nghĩa là cản trở tham gia hoạt động của phụ nữ trong các lĩnh vực. Tuy nhiên, những trường hợp vẫn cho phụ nữ tham gia các hoạt động trên nhưng có hành vi phân biệt đối xử, gây thiệt thòi cho họ trong các hoạt động ấy thì lại không bị xử lý, trong khi nội hàm của cụm từ xâm phạm quyền bình đẳng giới rất rộng đã được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời đã được hiến định trong Hiến pháp [6].

Thứ hai, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện luật chưa kịp thời, khiến cho việc áp dụng luật vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Khoản 4 Điều 14 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định: “Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ”. Theo đó, Điều 18 Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/05/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và các bộ, ngành khác có liên quan xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định hỗ trợ nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi, cụ thể: “1. Quy định các hình thức đào tạo linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nữ cán bộ, công chức, viên chức đang nuôi con nhỏ; 2. Quy định hỗ trợ bằng tiền; tạo điều kiện về nơi ở, nơi gửi trẻ, trường mầm non khi nữ cán bộ, công chức, viên chức mang theo con đến cơ sở đào tạo, bồi dưỡng”. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có hướng dẫn của Bộ Nội vụ về tổ chức thực hiện, do vậy, hầu hết các địa phương khi xây dựng quy định chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức không đề cập đến nội dung trên, đã hạn chế đáng kể cơ hội học tập và thăng tiến của nữ giới.

Thứ ba, một số quy định vẫn chưa đảm bảo yêu cầu tiếp cận, hỗ trợ bình đẳng giới thực chất. Đơn cử quy định khác nhau về độ tuổi nghỉ hưu giữa nam giới và nữ giới là quy định chưa đảm bảo tính công bằng. Bộ luật Lao động năm 2019 đang có sự khác biệt về độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ (60 tuổi đối với nữ, 62 tuổi đối với nam theo lộ trình), trong khi độ tuổi bắt đầu tham gia lao động không có sự phân biệt về giới (người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên). Độ tuổi nghỉ hưu liên quan chặt chẽ đến độ tuổi quy hoạch, bổ nhiệm, từ đó, dẫn đến bất bình đẳng về cơ hội phát triển nghề nghiệp, khả năng tham chính giữa nam và nữ. Do đó, sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu đã trở thành rào cản đối với nữ giới, hạn chế các cơ hội thăng tiến, đề bạt đối với nữ giới ở những vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao [5]. Mặt khác, Bộ luật Lao động năm 2019 định nghĩa việc làm là “hoạt động tạo ra thu nhập” và người lao động là người làm việc “được trả lương”. Quan niệm này hoàn toàn loại bỏ những người làm công việc chăm sóc không được trả lương ra khỏi phạm vi của “người lao động” và công việc đó không được coi là “việc làm”.

Thứ tư, xung đột giữa các quy định pháp luật và điều kiện thực thi trên thực tiễn. Theo quy định tại khoản 4 Điều 58 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động và khoản 4 Điều 137 Bộ luật Lao động năm 2019 thì “Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc”. Bản chất thời gian nghỉ này rất khó xác định, văn bản hướng dẫn không chỉ rõ trong tình huống có sự xung đột giữa điều kiện thực tế tại nơi làm việc và nhu cầu của lao động nữ, đặc biệt là các đơn vị sử dụng nhiều lao động nữ trong dây chuyền sản xuất liên tục, tạo cho người sử dụng lao động sự khó khăn trong việc bố trí, sắp xếp lao động phù hợp.

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ

Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế trong hệ thống pháp luật, có thể tiếp cận một số giải pháp cụ thể sau đây:

Thứ nhất, cần tiếp tục rà soát lại tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các đạo luật liên quan đến quyền của phụ nữ hiện đang nằm rải rác ở những văn bản chuyên ngành và lên kế hoạch sửa đổi, bổ sung các quy định này nhằm thể chế hoá kịp chủ trương chính sách, đường lối của Đảng như Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới,…

Thứ hai, cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn để tổ chức thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ vào thực tiễn đời sống, đặc biệt là Luật Bình đẳng giới năm 2006. Cụ thể là phải có văn bản hướng dẫn cụ thể phạm vi của khái niệm phân biệt đối xử trong bối cảnh nước ta hiện nay; hướng dẫn chi tiết Điều 19 của Luật liên quan đến các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; hướng dẫn chi tiết trình tự, thủ tục thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới; đặc biệt là đưa ra được những quy định ưu tiên hơn cho lao động nữ, đặc biệt là liên quan đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, việc làm, tiền công lao động,….

Thứ ba, cần quan tâm và khẩn trương ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm để đảm bảo các quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ phải được thực thi trên thực tế. Bên cạnh đó, cần xác định các chế tài cụ thể, có tính răn đe để áp dụng cho những hành vi vi phạm các quy định về quyền của phụ nữ. Bên cạnh đó, xác định các biện pháp pháp lý phù hợp, gắn với trách nhiệm của các chủ thể trong tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ.

Thứ tư, tiếp tục xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan đến việc xây dựng chính sách ưu tiên, chính sách bảo vệ và hỗ trợ đối với phụ nữ. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em. Luật hoá trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ với phụ nữ. Xây dựng, điều chỉnh quy định ưu tiên như: hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp; tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý;…

Thứ năm, trong quá trình xây dựng chương trình, chính sách pháp luật về quyền của phụ nữ phải gắn được nội dung lồng ghép bình đẳng giới. Nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, gồm: (1) Xác định nội dung liên quan đến vấn đề bình đẳng giới hoặc vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; (2) Quy định các biện pháp cần thiết để thực hiện bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; dự báo tác động của các quy định đó đối với nam và nữ sau khi được ban hành. (3) Xác định nguồn nhân lực, tài chính cần thiết để triển khai các biện pháp thực hiện bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới [7].

Kết luận: Phụ nữ đóng vai trò then chốt trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là nguồn động lực thúc đẩy xã hội tiến bộ toàn diện. Thực hiện quyền của phụ nữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển đất nước, hướng đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời là bước tiến trong sự nghiệp giải phóng con người. Do vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn trọng, công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của phụ nữ là nền tảng pháp lý quan trọng để thực thi và bảo vệ quyền bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy hết tiềm năng của mình, đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.

ThS. Lại Sơn Tùng

Khoa NN và PL, Học viện Chính trị khu vực I

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cambridge University Press & Assessment (2024), Cambridge Dictionary(https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english/women-s-rights)
  2. Chính phủ (2021), Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/03/2021 của Chính phủ về ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030
  3. Vũ Công Giao - Đinh Ngọc Thắng (2018), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  4. Fran P Hosken (1981), "Towards a Definition of Women's Rights", Human Rights Quarterly. Vol. 3, No. 2. (May, 1981)
  5. Phùng Thị An Na (2024), Chính sách, pháp luật về bình đẳng giới đối với công tác phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nữ hiện nay (https://www.xaydungdang.org.vn/dien-dan/chinh-sach-phap-luat-ve-binh-dang-gioi-doi-voi-cong-tac-phat-trien-doi-ngu-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-nu-hien-nay-20593)
  6. Hồ Quân (2021), Một số vấn đề về tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” (https://lsvn.vn/mot-so-van-de-ve-toi-xam-pham-quyen-binh-dang-gioi1626968808.html)
  7. Trần Thị Quyên (2020), Giải pháp bảo đảm bình đẳng giới trong chính sách, pháp luật hiện nay (https://tcnn.vn/news/detail/48247/Giai-phap-bao-dam-binh-dang-gioi-trong-chinh-sach-phap-luat-hiennay.html)
  8. Viện thông tin khoa học xã hội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại, Nhà in viện thông tin khoa học xã hội