Khi xã hội phát triển, con người có thể dễ dàng giao lưu, kết bạn với nhau qua các nền tảng xã hội thì cũng là lúc các thông tin cá nhân của con người cũng có thể bị đánh cắp. Đây là một trong những trường hợp xâm phạm quyền riêng tư mà pháp luật quy định. Do vậy, bảo vệ quyền riêng tư nói chung và bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam trên không gian mạng nói riêng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự bùng nổ thông tin trên không gian mạng. 

Luật An ninh mạng năm 2018 quy định trẻ em cần được bảo vệ
trên không gian mạng. Nguồn: laodongxahoi.net.

1. Quy định pháp luật Việt Nam về quyền riêng tư và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng

Việc bảo vệ quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam trên không gian mạng nói riêng giữ vai trò quan trọng trước những tác động tiêu cực mà trẻ phải gánh chịu nếu không có cơ chế bảo đảm hiệu quả. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Nhà nước ta đã ban hành khung pháp lý làm nền tảng trong việc bảo vệ quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam trên không gian mạng nói riêng, hệ thống pháp luật bảo vệ quyền riêng tư ở Việt Nam đã được cập nhật thường xuyên cùng với quá trình tự do hóa kinh tế, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ và Internet, các quy định pháp luật bao gồm:

Thứ nhất, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định quyền riêng tư về bí mật thư tín, điện thoại... như sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn; Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”

Thứ hai, Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình: “Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ; Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác; Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định; Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Thứ ba, Điều 46 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định về bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử; Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Thứ tư, Luật Trẻ em năm 2016 đã có quy định cụ thể về quyền riêng tư của trẻ em: “Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư” (Điều 21). Tiếp đến, Điều 33 Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em, quy định thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em đó là: “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”.

Thứ năm, Luật Báo chí năm 2016 cũng cấm đăng, phát thông tin có nội dung “ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em” (Khoản 9 Điều 9).

Thứ sáu, khoản 2 Điều 29 Luật An ninh mạng 2018 quy định về bảo vệ trẻ em trên không gian mạng như sau: “Trẻ em có quyền được bảo vệ, tiếp cận thông tin, tham gia hoạt động xã hội, vui chơi, giải trí, giữ bí mật cá nhân, đời sống riêng tư và các quyền khác khi tham gia trên không gian mạng; Chủ quản hệ thống thông tin, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng có trách nhiệm kiểm soát nội dung thông tin trên hệ thống thông tin hoặc trên dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp để không gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em; ngăn chặn việc chia sẻ và xóa bỏ thông tin có nội dung gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em; kịp thời thông báo, phối hợp với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an để xử lý; Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên không gian mạng có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền trong bảo đảm quyền của trẻ em trên không gian mạng, ngăn chặn thông tin có nội dung gây nguy hại cho trẻ em theo quy định của Luật này và pháp luật về trẻ em; Cơ quan, tổ chức, cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và cá nhân khác liên quan có trách nhiệm bảo đảm quyền của trẻ em, bảo vệ trẻ em khi tham gia không gian mạng theo quy định của pháp luật về trẻ em; Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và các cơ quan chức năng có trách nhiệm áp dụng biện pháp để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm hành vi sử dụng không gian mạng gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em”.

Bên cạnh những quy định mang tính chỉ dẫn, là những cơ sở pháp lý hiện hành cho việc bảo vệ quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng nói riêng thì Nhà nước cũng quy định các biện pháp xử lý khi có hành vi xâm phạm quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng nói riêng.

Thứ nhất, xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền riêng tư.

Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP xác định trách nhiệm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin, cụ thể điểm g khoản 3 Điều 66 quy định Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.

Thứ hai, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền riêng tư.

Trường hợp hành vi vi phạm cấu thành nên tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người thực hiện hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 159 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác có thể bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tù từ 01 năm đến 03 năm; cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tùy theo mức độ xâm phạm quyền riêng tư mà sẽ có hình phạt phù hợp.

Bên cạnh trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, người có hành vi xâm phạm quyền riêng tư còn có thể phải bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm dân sự, đó là: căn cứ Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm như sau:

“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Như vậy, khung pháp lý để nhận thức về quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam trên không gian mạng nói riêng không chỉ đề cập ở Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự mà còn được chứa đựng ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác với nhưng quy định khá chi tiết, đầy đủ về quyền riêng tư của cá nhân nói chung bao gồm quyền riêng tư về thông tin cá nhân, quyền riêng tư về cơ thể; quyền riêng tư về thông tin liên lạc; quyền riêng tư về nơi cư trú,…

2. Những bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng

Thứ nhất, cơ chế bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em hiện còn nằm trong cơ chế bảo vệ chung của quyền riêng tư nói chung. Việc chưa thực sự có cơ chế riêng trong quá trình bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em là điều bất lợi. Bởi vì, nhóm đối tượng của hoạt động này có đặc điểm đặc thù là chưa có sự hoàn thiện về mặt thể chất, tinh thần, những hậu quả mang lại cho trẻ em khi quyền riêng tư bị xâm phạm là rất lớn nếu như có sự chậm trễ trong quá trình ngăn chặn hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả.

Nguyên tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em được mặc định trong hệ các nguyên tắc chung về bảo vệ quyền trẻ em, chưa kể đến sự rời rạc và thiếu thống nhất của các nguyên tắc, cụ thể:

Một là, nội dung 5 nguyên tắc được ghi nhận (Điều 5 Luật Trẻ em) cho thấy, tinh thần của Công ước Quốc tế về trẻ em năm 1989 đã không được lĩnh hội triệt để. Thậm chí, với nguyên tắc thứ nhất - "Bảo đảm để trẻ em thực hiện được đầy đủ quyền và bổn phận" (Khoản 1 Điều 5), đã cho thấy nhận thức chưa thật sự đầy đủ của pháp luật Việt Nam về chủ thể của quyền trẻ em, đó là: "không tiếp cận xây dựng đạo luật này từ việc trân trọng xác định trẻ em là chủ thể của các quyền tự nhiên vốn có của mình" mà lại "gắn cho các em “bổn phận”. Quy định về các bổn phận này của các em hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý, bởi các em có không tuân thủ thì người ta lại nhìn thấy trách nhiệm của người lớn, của Nhà nước hay của gia đình, nhà trường. Đồng thời, hai nguyên tắc ở khoản 4 và khoản 5 Điều 5 chính là một quyền cụ thể (Điều 12 - quyền tự do quan điểm, biểu đạt) của Công ước năm 1989. Việc thiết kế các nguyên tắc bảo đảm quyền của trẻ em theo cách thức này đã làm cho các nguyên tắc vừa thiếu lại vừa thừa, bởi bản thân các nguyên tắc ở khoản 4 và khoản 5 đã nằm trong các nguyên tắc ở khoản 1; đặc biệt, thể hiện việc chưa nhận thức đúng bản chất của bảo đảm quyền của trẻ em. Theo đó, các nguyên tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em cũng chịu chung những hạn chế như vậy.

Hai là, đối với việc bảo vệ trẻ em và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng, cả Luật Trẻ em và Nghị định hướng dẫn thi hành đều không có quy định mang tính nguyên tắc, trong khi đây là khía cạnh mang nhiều đặc thù, có tác động lớn đến thời gian, phạm vi, mức độ, tính chất của việc xử lý các vi phạm liên quan. Đặc thù lớn nhất của bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em chính là việc phòng ngừa và xử lý hành vi xâm phạm quyền này trong thực tế. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về cơ chế phòng ngừa còn thiếu cụ thể.

Thứ hai, ở góc độ xử lý vi phạm, pháp luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em hiện nằm trong các quy định chung, chủ yếu ở khía cạnh xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể; các biện pháp xử lý khi có vi phạm quyền riêng tư nói chung trong đó có trẻ em là: ngăn chặn, yêu cầu tạm ngừng, ngừng cung cấp thông tin mạng; đình chỉ, tạm đình chỉ thiết lập, cung cấp và sử dụng mạng viễn thông, mạng Internet, sản xuất và sử dụng thiết bị phát, thu phát sóng vô tuyến; yêu cầu xóa bỏ, truy cập xóa bỏ thông tin vi phạm liên quan; phong tỏa, hạn chế hoạt động của hệ thống thông tin; đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin, thu hồi tên miền theo quy định của pháp luật...

  Cách thức quy định này tạo nên sự nửa chừng về trách nhiệm của cả cơ quan có thẩm quyền trong quản lý nội dung thông tin trên mạng và các doanh nghiệp kinh doanh mạng trong việc bảo vệ quyền riêng tư. Cả cơ quan có thẩm quyền và chủ thể kinh doạnh mạng đều có “trách nhiệm tổ chức tiếp nhận thông tin, đánh giá, phân loại mức độ an toàn cho trẻ em được gửi tới; bảo đảm việc phát hiện, loại bỏ các hình ảnh, tài liệu, thông tin không phù hợp với trẻ em” (Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em). Tuy nhiên, Nghị định này và Luật An ninh mạng năm 2018 lại quy định, khi quyền riêng tư của trẻ em bị xâm phạm trên không gian mạng, thì yêu cầu xóa bỏ và dừng các hành vi vi phạm chỉ được đặt ra đối với cá nhân hoặc doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mạng. Đây không chỉ là sự mâu thuẫn về quy định của pháp luật, mà là sự bất cập về chủ thể có nghĩa vụ ngăn chặn hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em. Bởi lẽ, trong tương quan với thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu, các nhà mạng là chủ thể ít bị ràng buộc nhất, không trực tiếp phải chịu những tổn thất về tinh thần hoặc thể chất, cũng không phải chủ thể phải chịu các trách nhiệm công vụ hay chính trị nếu để vi phạm xảy ra. Sự bất cập này đã góp phần tạo nên sự chậm trễ trong quá trình xử lý các trường hợp xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng.

Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến nội dung thông tin trên internet mới chỉ dừng ở việc xử lý các hành vi vi phạm với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý, như người sử dụng, người kinh doanh mà không có quy định về xử lý vi phạm với chủ thể có thẩm quyền, nếu như trong quá trình quản lý đã thực hiện không đúng hoặc không hiệu quả thẩm quyền quản lý của mình. Việc thiếu khuyết các quy định xác định trách nhiệm công vụ của chủ thể có thẩm quyền đã làm cho các quy định khác liên quan đến bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em kém hiệu quả. Đơn cử, Luật Trẻ em năm 2016 quy định được cho là tiến bộ là đã xác định trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, nhưng dễ nhận thấy, đó đều là trách nhiệm mang tính tích cực - trọng trách mà thiếu vắng quy định về trách nhiệm pháp lý nếu người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã này vi phạm các trọng trách được giao. Các quy định của pháp luật liên quan đến công chức cấp xã hay xử lý vi phạm hành chính cũng chưa hề được bổ sung cho hệ thống, logic.

Đặc biệt, các quy định liên quan đến giới hạn quyền riêng tư của trẻ em cũng đang chịu những hạn chế chung về giới hạn quyền con người. Cơ chế cho phép chủ thể có thẩm quyền thu thập các thông tin riêng tư của trẻ em vì các lý do như bảo vệ lợi ích, sức khỏe, đạo đức cộng đồng, của người khác hoặc an ninh mạng hiện chưa thật sự hợp lý. Có thể lấy ví dụ ở Luật An ninh mạng, khi có nguy cơ hoặc các vấn đề liên quan đến an toàn, an ninh thông tin trên mạng internet, các biện pháp như giám sát, kiểm tra, thu thập, đăng phát thông tin riêng tư của trẻ em vẫn được tiến hành. Nếu không có quy định rõ về phạm vi, thời gian, trường hợp, mức độ của việc giới hạn quyền đó, thì quyền riêng tư của trẻ em rất dễ bị xâm phạm từ chính các hoạt động tưởng rằng hợp pháp của các chủ thể công quyền.

3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng

Thứ nhất, cần tiếp cận việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em nói riêng, bảo vệ quyền của trẻ em nói chung cho đúng với nội hàm, bản chất của nó, đó là: quyền của trẻ em; trẻ em là chủ thể toàn diện của quyền; đồng thời, Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ, phải thực hiện tất cả các hoạt động để làm cho quyền riêng tư của trẻ em không bị xâm hại, mọi vi phạm đều bị xử lý thích đáng; từ đó xây dựng hệ thống pháp luật cho phù hợp, sao cho nếu để xảy ra vi phạm, không thực hiện hiệu quả nghĩa vụ, thì Nhà nước sẽ là chủ thể đầu tiên và cuối cùng phải gánh chịu nghĩa vụ pháp lý cho mọi vi phạm liên quan.

Thứ hai, cần quy định nhà mạng phải trực tiếp và chủ động xử lý vi phạm quyền riêng tư của trẻ em khi được tin báo, mà không cần phải chờ yêu cầu từ phía Nhà nước. Nhà nước phải giám sát, kiểm tra hoạt động của nhà mạng trong quá trình xử lý vi phạm. Muốn nhà mạng và Nhà nước thực hiện được đúng trách nhiệm của mình, thì phải có quy định của pháp luật cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm pháp lý tương ứng. Giải pháp này sẽ khắc phục được những vi phạm từ việc "không hành động" của các chủ thể công quyền trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, ngoài việc quy định trách nhiệm trực tiếp cho các nhà mạng, thì công quyền cũng phải trở thành đối tượng chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm về kết quả công tác bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em trong tương quan với bảo đảm quyền tự do internet. Pháp luật chỉ thực sự có hiệu lực và hiệu quả khi trách nhiệm pháp lý được xác định đến cùng. Chỉ khi nào Nhà nước đảm bảo được hiệu quả giải quyết vi phạm nội dung thông tin về trẻ em trên mạng của các nhà mạng, khi đó mới hoàn thành chu trình quản lý nhà nước.

Thứ ba, cần quy định cụ thể về giới hạn quyền, để bảo đảm quyền riêng tư nói chung, quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Trong các quy định pháp luật, cần minh bạch về thẩm quyền, nội dung, trình tự, phạm vi, thời gian áp dụng các biện pháp như theo dõi, giám sát thư tín, điện thoại, internet, thu thập thông tin riêng tư của trẻ em, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát, khiếu nại, khiếu kiện khi có vi phạm.

Thứ tư, cần thay đổi quy định về độ tuổi là trẻ em ở Việt Nam: dưới 18 tuổi, thay vì dưới 16 như hiện nay, để có thể “cải cách hệ thống pháp lý về bảo vệ trẻ em và công lý cho trẻ em độ tuổi 16 đến dưới 18, nhằm đảm bảo mọi trẻ em dưới 18 tuổi đều được tiếp cận các dịch vụ, bảo vệ toàn diện và nhận thức được quyền của mình”. Việc thay đổi độ tuổi này vừa phù hợp với quy định chung của Công ước Quyền trẻ em năm 1990, vừa là cốt lõi của nguyên tắc công bằng - nền tảng trong quá trình thực hiện Chương trình nghị sự phát triển bền vững toàn cầu và mục tiêu “Không để một ai bị bỏ lại phía sau” mà Việt Nam đang theo đuổi. “Vận dụng phương pháp tiếp cận mang tính công bằng sẽ hỗ trợ và cho phép Việt Nam tiếp cận được các đối tượng dễ bị tổn thương nhất, cũng như bảo đảm sự phát triển trong tương lai và sự thịnh vượng của quốc gia”1.

Thứ năm, xây dựng các nguyên tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em phải xác định cho được các quy chuẩn của hành động và tìm ra chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý cho sự vận hành hiệu quả, chứ không phải chỉ là các quy định mang tính chung chung, khẩu hiệu. Các nguyên tắc có thể là: Nhà nước là chủ thể bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em; Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên cơ sở không có bất kỳ phân biệt đối xử nào; Lợi ích tốt nhất của trẻ em là ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động liên quan; Các chủ thể bảo đảm quyền riêng tư phải đáp ứng các tiêu chuẩn và phải bị giám sát; Bảo đảm quyền, lợi ích, trách nhiệm của cha mẹ và các chủ thể tương đương trong quá trình bảo đảm quyền riêng tư.

Thứ sáu, thiết lập cơ chế riêng cho bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em, trong đó “sớm xây dựng cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân với thẩm quyền xem xét khiếu nại, thực hiện quyền thanh tra, giám sát cũng như nghiên cứu hoàn thiện chính sách pháp luật, thúc đẩy quyền riêng tư”. Cơ quan chuyên trách này phải là chủ thể mang tính đầu mối, tổng thể để chịu trách nhiệm cho việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ, hoạt động trên hệ các nguyên tắc chặt chẽ về đảm bảo tính nhanh chóng trong việc chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục thiệt hại và xử lý thích đáng hành đối tượng vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em.

Thứ bảy, xác định rõ các trường hợp vi phạm và quy định cụ thể về các dạng chế tài cho hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em. Trước mắt, cần ban hành, bổ sung hướng dẫn về xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm quyền riêng tư để có cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý và xử lý các hành vi thuộc loại này. Cũng cần tăng mức phạt tiền đối với các trường hợp thành viên gia đình làm lộ, phát tán các thông tin thuộc bí mật đời tư của trẻ em để nâng cao nhận thức về quyền riêng tư và bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em.

TS. Tăng Thị Thu Trang

Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

ThS Lê Thị Thu Huyền

Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 5/2022

---

Tài liệu tham khảo
1. Luật Trẻ em năm 2016 
2. Luật Báo chí năm 2016 
3. Luật Đầu tư năm 2020
4. Luật Quảng cáo năm 2018 
5. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019
6.  Luật An ninh mạng năm 2018
7.  Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989
8. Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em
9. Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo
10. Nghị định 72/2013/NĐ-CP quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng
11.  Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội
12. Thông tư 09/2019/TT-BKHCN ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đồ chơi trẻ em và QCVN 03:2019/BKHCN 
13. Hội nghị công bố kết quả nghiên cứu “Điều chỉnh tuổi pháp lý của trẻ em Việt Nam từ dưới 16 lên dưới 18 tuổi” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc phối hợp tổ chức ngày 30/8/2019, tại Hà Nội.
14. https://dangcongsan.vn/xa-hoi/bao-ve-tre-em-tren-khong-gian-mang-582802.html
15. https://www.qdnd.vn/quoc-te/doi-song/anh-tao-la-chan-cho-tre-em-tren-khong-gian-mang-671591
16. https://tuoitre.vn/anh-day-hoc-sinh-tieu-hoc-ve-so-huu-tri-tue-20180123122132909.htm
17. Sách tham khảo Quyền về sự riêng tư, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, năm 2018