Lồng ghép quyền con người trong hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng là vấn đề quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ, bài viết đã đi sâu phân tích nội dung và chỉ ra sự cần thiết của hoạt động lồng ghép quyền con người trong giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay.

Lễ ký kết Chương trình phối hợp giữa Bộ Công an - Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông trong các cơ sở giáo dục giai đoạn 2022-2025. Nguồn: moet.gov.vn.

Đặt vấn đề
Điều 13 Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 tuyên bố rằng: “Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia”1.  Pháp điển hóa nội dung này, Điều 12 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy định: “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại... trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó”2. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”3; “Công dân có quyền tự do đi lại... Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”4. Như vậy, quyền tự do đi lại và bảo đảm an toàn trong hoạt động giao thông là một nội dung quan trọng của quyền con người. Nhất là khi việc tham gia giao thông là hành vi phổ biến của mỗi cá nhân song việc gia tăng các vụ việc vi phạm an toàn giao thông đã và đang đặt ra những vấn đề đáng lo ngại về an toàn đối với quyền bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Tuy vậy, giáo dục pháp luật (GDPL) về trật tự an toàn giao thông đường bộ (TTATGTĐB) trong các cơ sở giáo dục đại học vẫn còn bộc lộ hạn chế trên nhiều mặt, trong đó vấn đề lồng ghép quyền con người qua GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên ở nhiều nơi còn chưa được nhận thức và triển khai đầy đủ. Hoạt động GDPL nói chung và GDPL về TTATGTĐB ở nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa được chú trọng đúng mức nên chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì lẽ đó, việc lồng ghép quyền con người trong GDPL về TTATGTĐB cho người dân nói chung và sinh viên nói riêng vì lợi ích chung của cộng đồng và bảo đảm an toàn, an ninh cá nhân trong lĩnh vực TTATGTĐB là cần thiết.
1. Thực trạng giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay 
Sau khi Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân” đã có rất nhiều các văn bản quy định về công tác phổ biến giáo dục pháp luật được ban hành và đưa vào thực hiện trong đời sống. Trong đó có thể kể đến các văn bản như: Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012; Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật  giai đoạn 2017 - 2021; Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”; Quyết định số 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đến năm 2021”. 
Thực hiện các văn bản trên, các cơ sở giáo dục đại học trên phạm vi toàn quốc đã đưa GDPL trong đó có GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên vào nội dung GDPL trong nhà trường và đạt được những kết quả đáng kể. 
Thứ nhất, về nội dung GDPL về TTATGTĐB đã được các cơ sở giáo dục đại học chú trọng,tập trung vào hai mảng cơ bản là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ và các quy tắc đạo đức, ý thức khi tham gia giao thông đường bộ. Các nội dung này được đưa vào chương trình GDPL chính khóa và chương trình GDPL ngoại khóa. Chương trình giáo dục pháp luật chính khóa được thực hiện thông qua học phần Pháp luật đại cương hoặc các học phần liên quan đến pháp luật. Trong đó, học phần Pháp luật đại cương được thiết kế gồm 9 đến 15 chương/vấn đề (tùy từng cơ sở đào tạo) bao gồm các nhóm kiến thức cơ bản sau: những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật, nội dung cơ bản của một số ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về phòng chống tham nhũng5. Có thể nói, chương trình Pháp luật đại cương đã bao quát những nội dung cơ bản, cần thiết của kiến thức về nhà nước và pháp luật nói chung. Bên cạnh chương trình chính khóa, nhiều cơ sở đào tạo đã quan tâm đến việc thực hiện các hoạt động giáo dục pháp luật về TTATGTĐB thông qua hoạt động ngoại khóa như tổ chức thảo luận, tọa đàm về các nội dung pháp luật về TTATGTĐB; tổ chức nghe, nói chuyện chuyên đề, xem phim, xem tiểu phẩm; tổ chức đi thực tế; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về TTATGTĐB, thi văn nghệ với chủ đề pháp luật về TTATGTĐB, tổ chức giao lưu giữa các trường, các khoa, các lớp; thành lập các câu lạc bộ pháp luật, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ theo chủ đề; tuyên truyền, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB trong cộng đồng; tổ chức phong trào thanh niên tình nguyện, thanh niên xung kích tham gia giữ gìn TTATGTĐB... 
Thứ hai, đổi mới về hình thức, phương pháp. Trong hoạt động GDPL về TTATGTĐB đã áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, nhằm chuyển dần trạng thái từ truyền thụ một chiều sang phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên. Việc đưa những tình huống pháp luật cụ thể vào bài giảng đã giúp sinh viên hứng thú nghe giảng, từ đó nâng cao hiệu quả GDPL về TTATGTĐB. 
Như vậy, với sự đổi mới về nội dung và hình thức, phương pháp trong giảng dạy các hoạt động GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên đã mang lại hiệu ứng tích cực trong việc thu hút được nhiều sinh viên tham gia, đồng thời tạo ra sức lan tỏa tốt góp phần nâng cao ý thức pháp luật về TTATGTĐB và ý thức pháp luật nói chung trong sinh viên.
Bên cạnh những mặt tích cực đó, hoạt động GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể:
Thứ nhất, chương trình, nội dung GDPL về TTATGTĐB chưa đảm bảo về mặt thời gian. Bởi lượng kiến thức của hoạt động này lớn,yêu cầu phải truyền đạt và tiếp thu kiến thức với độ chính xác cao, đặc biệt là các nội dung pháp luật thực định, trong khi đó nội dung này chủ yếu được giảng dạy ở hoạt động chính khóa với thời lượng của chương trình chỉ có 30 tiết/giờ tín chỉ. Điều này gây khó khăn trong việc lồng ghép các nội dung cần thiết trong đó có nội dung GDPL về TTATGTĐB vào chương trình học hoặc có lồng ghép cũng không mang lại hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, hoạt động GDPL ngoại khóa cho sinh viên không được tổ chức thường xuyên làm cho hoạt động GDPL về TTATGTĐB khó hiệu quả.
Thứ hai, hình thức, phương pháp GDPL về TTATGTĐB nhất là trong các hoạt động giảng dạy chính khóa trong các trường đại học còn một số hạn chế, chưa phù hợp, chưa kết hợp hài hòa giữa trang bị kiến thức pháp luật với việc hình thành kỹ năng, hành vi và thói quen pháp luật cũng như kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi của sinh viên. Mặc dù, trong thời gian qua phương pháp GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên trong các cơ sở đào tạo đã có sự thay đổi song chủ yếu vẫn là phương pháp thuyết trình, truyền thụ một chiều, thụ động, còn các phương pháp giảng dạy tương tác hai chiều kiểu thảo luận, tranh luận nêu các tình huống pháp luật thực tế còn ít được vận dụng. Theo điều tra, trong tổng số 500 sinh viên được hỏi thì có đến 427 sinh viên chiếm tỷ lệ 85,4% trả lời hình thức, phương pháp GDPL về TTATGTĐB chưa phù hợp, 64 sinh viên trả lời phù hợp chỉ chiếm 12,8%, số còn lại không có ý kiến6.
Thứ ba, thái độ của sinh viên đối với môn GDPL về TTATGTĐB còn thiếu tích cực, chủ động. Số lượng sinh viên tham gia vào các hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa còn thấp, do tâm lý sinh viên coi đây là hoạt động phụ, không ảnh hưởng đến kết quả học tập chung.Theo đánh giá của sinh viên, hình thức, nội dung GDPL về TTATGTĐB còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn nên chưa thực sự thu hút được đông đảo sinh viên tham gia mà chủ yếu cũng chỉ tập trung ở một nhóm sinh viên nhất định. Trong tổng số 500 sinh viên được hỏi thì chỉ có 72 sinh viên với tỷ lệ 14,4% trả lời có tham gia vào các hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa, số còn lại trả lời không tham gia hoặc không quan tâm7.
Thứ tư, việc lồng ghép nội dung quyền con người trong GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên chưa được coi trọng. Nội dung giảng dạy vẫn chủ yếu tập trung vào hai nhóm chính là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ  và các quy tắc đạo đức, ý thức khi tham gia giao thông đường bộ nhằm mục tiêu mà chủ thể GDPL hướng tới là nâng cao ý thức pháp luật về TTATGTĐB cho sinh viên, hướng họ tới việc tự giác thực hiện đúng các quy định của pháp luật về TTATGTĐB như một nghĩa vụ của cá nhân mà thiếu vắng một mục tiêu rất quan trọng là hướng tới việc hình thành ở sinh viên ý thức thực hiện và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực ATGTĐB. Đây cũng là lí do cần thiết cho việc lồng ghép nội dung quyền con người trong GDPL về TTATGTĐB cho sinh viên đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới.
2. Nội dung lồng ghép quyền con người trong giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ cho sinh viên trong thời gian tới
Giáo dục pháp luật về TTATGTĐB ngoài việc tập trung vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ và các quy tắc đạo đức, ý thức khi tham gia giao thông đường bộ, cần chú ý đến vấn đề quyền con người trong lĩnh vực TTATGTĐB. Bởi việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong pháp luật về TTATGTĐB là sự vận dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế, các nguyên tắc, quy định về quyền con người trong Hiến pháp để cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể trong Luật an toàn giao thông đường bộ (ATGTĐB) hiện hành cũng như dự thảo Luật TTATGTĐB. Qua đó, khẳng định vai trò của pháp luật về TTATGTĐB đối với bảo đảm quyền tự do đi lại - một quyền quan trọng đối với mỗi cá nhân.
Việc lồng ghép quyền con người trong giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ cho sinh viên bao gồm các nội dung sau:
Một là, bảo đảm quyền con người trong các quy định pháp luật về TTATGTĐB phải gắn liền với trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong đảm bảo TTATGTĐB. Pháp luật Việt Nam quy định lực lượng Cảnh sát giao thông và các cơ quan chức năng là chủ thể có trách nhiệm trong bảo đảm TTATGTĐB. Tuy nhiên, các lực lượng này chỉ được thực hiện công vụ, nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền được xác định. Việc đưa ra các quy định cụ thể của pháp luật về thẩm quyền của các cơ quan chức năng chính là công cụ nhằm hạn chế tình trạng vi phạm quyền con người trong đảm bảo TTATGTĐB từ phía các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Bên cạnh việc quy định thẩm quyền của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong đảm bảo TTATGTĐB, pháp luật cũng đã có các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể này, đặc biệt là quy định các hành vi bị cấm từ phía cơ quan nhà nước nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo đảm TTATGTĐB. Theo đó, người tham gia giao thông có quyền phát hiện, góp ý thậm chí khiếu nại, tố cáo đối với các việc làm sai trái từ phía cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đảm bảo TTATGTĐB.
Hai là, bảo đảm quyền con người trong các quy định pháp luật về TTATGTĐB phải trên cơ sở xác định các quyền của chủ thể tham gia giao thông được hưởng theo quy định của pháp luật như quyền tự do đi lại, quyền được đảm bảo an toàn trong giao thông... Tuy nhiên để được hưởng các quyền này, chủ thể tham gia giao thông phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ tương ứng, cụ thể:
(1) Quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản.Đây là quyền quan trọng nhất của người tham gia giao thông. Pháp luật quy định mọi người có quyền được tham gia giao thông trong điều kiện an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Song theo thống kê của Bộ Công An, năm 2022, toàn quốc xảy ra 11.450 vụ, làm chết 6.384 người, bị thương 7.804 người. So với năm 2021, giảm 36 vụ (-0,31%); tăng 596 người chết (+10,30%); giảm 214 người bị thương (-2,67%)8. Con số thống kê này cho thấy số vụ tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng số người chết tăng lên rất nhiều, số người bị thương giảm không đáng kể. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đòi hỏi mỗi người phải có ý thức cao hơn về việc bảo đảm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tham gia giao thông.Điều kiện an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản ở đây bao gồm nhiều yếu tố tạo thành như điều kiện về cơ sở hạ tầng giao thông, điều kiện về phương tiện tham gia giao thông, môi trường giao thông đảm bảo, điều kiện về năng lực chủ thể trong tham gia giao thông... Để người tham gia giao thông được hưởng những quyền này tương ứng với việc các cơ quan nhà nước phải thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ và các cam kết trước người dân về một môi trường giao thông an toàn, từ việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, đến việc kiểm định chất lượng công trình giao thông, chất lượng kỹ thuật của phương tiện giao thông và cả cấp giấy phép tham gia giao thông trong các trường hợp cụ thể. Mọi hành vi vi phạm từ phía cơ quan nhà nước trong các hoạt động này đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
(2) Quyền được đảm bảo an toàn về danh dự, bí mật đời tư. Luật ATGTĐB hiện hành và các văn bản pháp luật liên quan của nước ta có những quy định thể hiện tính chất nhân đạo, nhân văn thuộc về bản chất pháp luật xã hội chủ nghĩa. Theo đó, người tham gia giao thông, ngay cả khi họ vi phạm pháp luật về TTATGTĐB và bị xử lý vi phạm thì phía cơ quan nhà nước cũng phải đảm bảo an toàn về danh dự, đời tư... của họ. Trong mọi trường hợp lực lượng chức năng yêu cầu người tham gia giao thông dừng phương tiện khi đang tham gia giao thông đều phải có lý do rõ ràng, người tham gia giao thông có quyền được biết về lý do đó. Khi lực lượng chức năng yêu cầu người tham gia giao thông xuất trình các loại giấy tờ tùy thân và các loại giấy tờ khác để kiểm tra, người tham gia giao thông đều có quyền từ chối nếu không được biết rõ lý do. Trong khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm TTATGTĐB, các lực lượng chức năng không được phép xâm phạm đến danh dự, bí mật đời tư của người tham gia giao thông. Trong thực tế, không phải tất cả mọi người tham gia giao thông đều hiểu được những quy định tối thiểu này. Bên cạnh đó cũng không thiếu các trường hợp xâm phạm danh dự, đời tư của người tham gia giao thông từ phía lực lượng chức năng.
(3) Bảo vệ quyền của người gây tai nạn và nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Trong trường hợp tai nạn giao thông xảy ra, an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tham gia giao thông đã bị xâm hại hoặc đe dọa bị xâm hại. Tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi gây tai nạn để xác định có hay không hành vi vi phạm pháp luật trong việc gây tai nạn. Trong mọi trường hợp đều phải ưu tiên việc khắc phục hậu quả trước khi xử lý vi phạm. Theo đó, các quyền của người gây tai nạn và nạn nhân cần phải được tôn trọng và bảo vệ. Việc xác định có hay không có hành vi vi phạm pháp luật, mức độ trách nhiệm pháp lý mà chủ thể gây tai nạn phải gánh chịu (nếu có) phải được thực hiện một cách chính xác, tuân thủ quy trình xử lý vi phạm pháp luật, hạn chế, ngăn ngừa các hành vi vi phạm từ phía cơ quan nhà nước trong quá trình xử lý tai nạn giao thông, đồng thời cũng tránh những vi phạm có thể xảy ra từ phía gia đình nạn nhân.
Ngoài các quyền cơ bản trên đây, cần chú ý đến việc đảm bảo các quyền ưu tiên của nhóm người yếu thế khi tham gia giao thông, như trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ mang thai, người khuyết tật. Mặc dù Luật ATGTĐB hiện hành và các văn bản pháp luật liên quan đã có những quy định về nội dung này, nhưng trong thực tế, do thói quen ứng xử, văn hóa giao thông của nhiều đối tượng chưa cao nên việc vi phạm quyền của nhóm người yếu thế trong tham gia giao thông vẫn thường xảy ra. Do đó, việc nâng cao ý thức pháp luật của người tham gia giao thông để đảm bảo các quyền ưu tiên của nhóm người này là vấn đề cần thiết.
Ba là, mục tiêu của việc lồng ghép quyền con người vào GDPL về TTANGTĐB là nhằm phòng ngừa tai nạn giao thông, vi phạm giao thông, vi phạm quyền của người tham gia giao thông.Bằng các quy định về điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông, phương tiện tham gia giao thông, điều kiện của người tham gia giao thông và các quy tắc giao thông, Luật ATGTĐB đã tạo cơ sở pháp lý cho người tham gia giao thông thực hiện các quyền của mình. Có thể khẳng định, các quy định pháp luật về TTATGTĐB là phương tiện hữu hiệu để phòng ngừa các vi phạm TTATGTĐB từ phía người tham gia giao thông. Theo đó, người tham gia giao thông cũng có quyền giám sát, phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGTĐB từ phía các chủ thể khác khi tham gia GTĐB thông qua việc lên án bằng dư luận, thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về TTATGTĐB của người tham gia giao thông không chỉ là thực hiện nghĩa vụ của cá nhân mà còn là việc cụ thể hóa các quyền con người khi tham gia giao thông. Thông qua việc thực hiện các quy định của pháp luật về TTATGTĐB, các chủ thể tham gia giao thông không chỉ đáp ứng được các yêu cầu lợi ích chung của cộng đồng mà còn là tự đảm bảo quyền cá nhân trong lĩnh vực giao thông.
Tóm lại, việc lồng ghép quyền con người trong lĩnh vực TTATGTĐB cho sinh viên nói riêng và cho người dân nói chung sẽ giúp nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ văn hóa pháp lý của người dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Kết luận
Bảo đảm quyền con người là một yêu cầu tất yếu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Muốn quyền con người được bảo đảm, ngoài việc có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện có tính khả thi cao thì việc đưa các quy định pháp luật vào đời sống để hiện thực hóa các quy định này là yếu tố không thể thiếu. Muốn vậy, mỗi chủ thể trong xã hội phải có nhận thức đúng đắn về quyền con người, có ý thức thực hiện và bảo vệ các quyền đó, trước hết vì quyền lợi của bản thân và vì lợi ích của cộng đồng. Trong lĩnh vực an toàn giao thông cũng vậy, muốn đảm bảo quyền tự do đi lại, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, bí mật đời tư thì bản thân mỗi chủ thể tham gia giao thông phải hiểu rõ và nhận thức được tầm quan trọng của các quyền này. Việc lồng ghép quyền con người qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB cho sinh viên nói riêng và cho nhân dân nói chung vì thế luôn cần được quan tâm đúng mức.

TS. Nguyễn Thị Thanh Nhàn

Khoa Chính trị - Luật, trường Đại học Hà Tĩnh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2023

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Điều 13, Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948.
(2) Điều, 12, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966.
(3) Điều 14, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
(4) Điều 23, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
(5) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình pháp luật đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm năm 2022.
(6) Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2022), Giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ cho sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn Hà Tĩnh, Đề tài khoa học cấp cơ sở.
(7) Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2022), Giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ cho sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn Hà Tĩnh, Đề tài khoa học cấp cơ sở.
(8) http//:bocongan.gov.tintuc ngày 19/1/2023.