Trong những năm gần đây, nhất là dưới tác động của đại dịch Covid-19, tư cách công dân số của người dân Việt Nam được bộc lộ rõ nét, cùng với sự phát triển của chính quyền số. Từ đó, mỗi người dân đều có quyền, trách nhiệm của công dân số trong mối quan hệ với chính quyền số. Bài viết phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của công dân số trong chính quyền số ở Việt Nam hiện nay.
1. Công dân số và mối quan hệ giữa công dân số và chính quyền số
Vậy công dân số là ai? Theo nghiên cứu, có chín yếu tố cấu thành những công dân số là “khả năng truy cập vào những nguồn thông tin số, khả năng thực hiện việc giao tiếp trong môi trường kỹ thuật số, sở hữu kỹ năng số cơ bản, mua bán dịch vụ, hàng hóa trên mạng, những chuẩn mực đạo đức ở trong môi trường số, bảo vệ thể chất và tâm lý trước những ảnh hưởng đến từ môi trường số, quyền và những trách nhiệm ở trong môi trường số, tiến hành định danh và xác thực, thông tin dữ liệu cá nhân và các quyền riêng tư ở trong môi trường số”1...
Mối quan hệ giữa công dân số và chính quyền số được thể hiện ra sao? chính quyền số quan hệ với công dân số dựa trên công nghệ số, dữ liệu số, bằng các dịch vụ công trực tuyến quốc gia hay giao dịch điện tử2. Nó quan hệ với công dân số bằng cách kết nối vạn vật (mọi thứ) trong xã hội thông qua phương thức số hóa chúng. Theo Kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 trong Quyết định số 151/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ3, chính quyền số quan hệ với công dân số dưới các hình thức dịch vụ công trực tuyến quốc gia từ mức độ 1-4 như trong Thông tư 32/2017/ TT- BTTTT. Cụ thể:
a) Mức độ 1: Là phải cung cấp đầy đủ các thông tin cơ bản về tên thủ tục hành chính, trình tự thực hiện, cách thức thực hiện, thành phần, số lượng hồ sơ, thời hạn giải quyết, đối tượng thực hiện thủ tục hành chính, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính,... văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp về thủ tục hành chính, quyết định công bố thủ tục hành chính.
b) Mức độ 2: Cung cấp đầy đủ thông tin cơ bản như dịch vụ công trực tuyến mức độ 1; và cung cấp đầy đủ các biểu mẫu điện tử không tương tác và cho phép người sử dụng tải về để khai báo sử dụng; hồ sơ in từ biểu mẫu điện tử không tương tác sau khi khai báo theo quy định được chấp nhận như đối với hồ sơ khai báo trên các biểu mẫu giấy thông thường.
c) Mức độ 3: Đáp ứng các yêu cầu của dịch vụ công trực tuyến mức độ 2; và các biểu mẫu của dịch vụ được cung cấp đầy đủ dưới dạng biểu mẫu điện tử tương tác để người sử dụng thực hiện được việc khai báo thông tin, cung cấp các tài liệu liên quan (nếu có) dưới dạng tệp tin điện tử đính kèm và gửi hồ sơ trực tuyến tới cơ quan cung cấp dịch vụ; ... các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng; việc thanh toán phí, lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan cung cấp dịch vụ hoặc qua dịch vụ bưu chính.
d) Mức độ 4: Đáp ứng các yêu cầu của dịch vụ công trực tuyến mức độ 3; và cung cấp chức năng thanh toán trực tuyến để người sử dụng thực hiện được ngay việc thanh toán phí, lệ phí (nếu có) qua môi trường mạng; việc trả kết quả cho người sử dụng có thể được thực hiện trực tuyến, qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp. Kết quả dưới dạng điện tử của dịch vụ công trực tuyến có giá trị pháp lý như đối với kết quả truyền thống theo quy định về kết quả điện tử của cơ quan chuyên ngành;... Khuyến khích gửi kết quả qua các kênh giao tiếp điện tử khác như: tin nhắn trên điện thoại di động, dịch vụ trao đổi thông tin trên mạng.
Thông qua dịch vụ công trực tuyến quốc gia, chính quyền số tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền của công dân số minh bạch hơn, hạn chế tham nhũng, kiến tạo sự phát triển cho công dân và xã hội. Nhờ dữ liệu số và công nghệ số, chính quyền số thấu hiểu công dân số hơn; từ đó thực hiện nghĩa vụ với công dân và đáp ứng các quyền công dân, quyền con người hiệu lực, hiệu quả hơn.
Tác động tích cực mà chính quyền số mang lại cho công dân số đã được chứng minh thông qua thực tiễn. Thực vậy, mã định danh được chính quyền cấp cho công dân số chính là địa chỉ để chính quyền, doanh nghiệp kịp thời thông báo cho công dân bằng thư điện tử các hóa đơn tiền điện, nước, rác thải hay các dịch vụ tiêm phòng, bảo hiểm. Đối với công dân đến tuổi đi học mẫu giáo, dựa trên số liệu dân cư, chính quyền sẽ quyết định phân bổ cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục; nhờ đó tránh nơi thừa, nơi thiếu; đến tuổi trưởng thành, những công dân này sẽ tự động nhận được căn cước công dân. Chính quyền cũng công khai điều kiện tìm kiếm việc làm hay quy trình, cơ chế đầu tư khởi nghiệp, sản xuất - kinh doanh, để mọi công dân tham gia công khai, bình đẳng; hoặc khi thiên tai, dịch bệnh bùng phát thì công dân số kịp thời nhận được cảnh báo, cứu trợ xã hội hay chăm sóc y tế, v.v..
Với sự phát triển của chính quyền số, công dân số nhờ thế chủ động tiếp cận dịch vụ quản lý công, giáo dục, đào tạo, đầu tư, sinh kế, tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã hội,... Chỉ số bình đẳng về cơ hội, hài lòng của công dân số đối với một nền hành chính minh bạch, hiện đại, văn minh, có trách nhiệm giải trình, lấy người dân làm trung tâm phục vụ, được kiểm nghiệm công khai và nâng cao trong thực tế cuộc sống, vì thế vai trò chủ thể của họ cũng được đo lường cụ thể và thiết thực hơn.
Như vậy, mối quan hệ giữa chính quyền và công dân số, nhìn chung được thực hiện ở ba cấp độ: cung cấp thông tin của chính quyền; tham vấn và tham gia tích cực của công dân.
Ngoài ra, đối với hoạt động của chính phủ, chính quyền số cũng góp phần giúp chính phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, minh bạch hơn, hạn chế tham nhũng, kiến tạo sự phát triển cho công dân và xã hội. Thông qua việc chuyển hoạt động của chính phủ, chính quyền các cấp lên môi trường số bao hàm cả việc chuyển hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước đã tạo điều kiện cho cơ quan chức năng thực hiện thanh tra trực tuyến, thông qua các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu được kết nối bằng mạng internet, xóa bỏ việc tiến hành kiểm tra trực tiếp tại cơ quan, doanh nghiệp theo cách trực tiếp truyền thống. Theo Kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, mục tiêu đặt ra là đến năm 2025, 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước thực hiện từ xa trên môi trường số; và đến năm 2030 tỷ lệ này đạt 70%4.
Chính quyền số quan hệ với công dân số dưới các hình thức
dịch vụ công trực tuyến quốc gia. Nguồn: xaydungchinhsach.chinhphu.vn.
2. Thực trạng bảo đảm quyền của công dân số trong chính quyền số
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Việt Nam xác định chuyển đổi số phải là công cụ quan trọng trong xây dựng đất nước độc lập, tự chủ và hội nhập. Chính vì thế, trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến cũng như phát triển các kênh kỹ thuật, tạo điều kiện cho người dân truy cập các dịch vụ công trực tuyến và giao dịch điện tử như truy cập hồ sơ y tế, xin hộ chiếu hoặc giấy phép kinh doanh, nộp thuế... để tăng cường sự tương tác giữa chính quyền số và người dân, qua đó góp phần tôn trọng, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của công dân số. Theo số liệu tại Hội thảo quốc gia về Chính phủ điện tử năm 2021 (9/2021), “Theo thông tin tại Hội thảo, năm 2020, thứ hạng phát triển chính phủ điện tử của Việt Nam đã tăng hai bậc, lên vị trí thứ 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ theo báo cáo của Liên hợp quốc.... Về lĩnh vực thương mại điện tử, thương mại điện tử Việt Nam năm 2020 đã tăng 16% và đạt quy mô trên 14 tỷ USD. Trong đó, lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến tăng 46%; gọi xe và đồ ăn công nghệ tăng 34%; tiếp thị, giải trí và trò chơi trực tuyến tăng 18%. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2020 - 2025 được dự đoán là 29% và tới năm 2025 quy mô thương mại điện tử nước đạt 52 tỷ USD”5.
Với sự tiến bộ của công nghệ số, người dân Việt Nam cũng đã và đang “tận hưởng” cuộc sống số. Mặc dù dịch bệnh Covid-19 diễn ra trong 2 năm vừa qua là một thảm họa toàn cầu, song đây lại là chất xúc tác để người dân làm quen và thích ứng với môi trường làm việc và học tập từ xa qua nhiều ứng dụng như Zoom, Team microsoft, Google Classroom, Google meet... và sử dụng tốt các nền tảng truyền thông xã hội để giao tiếp, trải nghiệm thực tế ảo như zalo, viber... Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), ước tính đến trước tháng 12/2021, có 7,35 triệu học sinh các cấp đang tham gia học trực tuyến. Đến nay, khi dịch bệnh được kiểm soát thì việc học và làm việc trực tuyến hoặc kết hợp trực tuyến vẫn là lựa chọn an toàn để việc học tập, rèn luyện của học sinh, sinh viên cả nước cũng như công việc của người dân không bị gián đoạn.
Đối với hạ tầng cơ sở, tính đến năm 2020, hạ tầng viễn thông quốc gia đã phủ rộng khắp toàn quốc, kể cả ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông ngày càng được nâng cao. Hệ thống băng thông rộng được phát triển mạnh. Theo thống kê của Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông), từ tháng 1/2020 đến tháng 10/2021, lưu lượng internet băng rộng (gồm di động và cố định) của nước ta đã tăng hơn 40%. Tại thời điểm giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19 ở nhiều địa phương tháng 8/2021, tăng trưởng lưu lượng internet băng rộng di động lên tới 95%. Cuối năm 2021, các nhà mạng có 70,9 triệu thuê bao băng rộng di động (tăng hơn 4% so với năm 2020) và 18,79 triệu thuê bao băng rộng cố định (tăng 14,59% so với năm 2020). Số liệu từ Cục Viễn thông cũng cho thấy, đến tháng 10/2021, cả nước có gần 71 triệu người sử dụng internet (chiếm hơn 2/3 dân số). Cùng với mạng tốc độ cao, sự phát triển của công nghệ di động với hàng loạt sản phẩm điện thoại thông minh cũng tạo điều kiện cho người dùng truy cập các dịch vụ kỹ thuật số một cách thuận tiện và an toàn. Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, trong năm 2020, tỷ lệ người dùng truy cập internet qua điện thoại di động lên tới 94% với thời lượng truy cập trung bình mỗi ngày khá cao.
Việc bảo đảm quyền, trách nhiệm của công dân số ngày một phong phú hơn nhờ công nghệ Internet kết nối vạn vật IoT, kết nối thông minh giữa các thiết bị và đồ dùng qua Internet như điện thoại thông minh, máy tính bảng, thiết bị định vị, theo dõi, màn hình và cảm biến cho phép gửi và nhận dữ liệu. Người dân cũng đồng thời trải nghiệm công nghệ giải trí số đa sắc màu qua nền tảng số hóa tự động các loại hình phim, game shows, video, game (trò chơi trực tuyến, trò chơi tương tác), eSports - thể thao điện tử,... Theo Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021 của Bộ Công Thương, năm 2020, tỷ lệ người dùng internet sử dụng internet để đọc báo lên tới 63%; xem phim, nghe nhạc là 43%; chơi game 19%,...
Người dân, kể cả người nông dân, cũng đang tham gia mạnh mẽ vào thương mại số thông qua việc bán hàng, mua sắm online trên các trang mạng xã hội zalo, facebook,… Số lượng người mua tiêu dùng mua sắm trực tuyến đã tăng nhanh từ 32,7 triệu người năm 2016 lên 49,3 triệu người năm 2020. Tỷ lệ này chắc chắn cao hơn theo từng năm, vì mua sắm trực tuyến đang dần trở thành một thói quen mua sắm của người dân Việt Nam.
Mặc dù đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng công tác xây dựng chính quyền số vẫn chưa đạt được kết quả như kỳ vọng và chưa đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu, yêu cầu mới hiện nay. Những thách thức mà chính quyền số đặt ra vẫn là vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới. Trong đó thách thức lớn nhất đối với chính quyền số, công dân số là cách thức xử lý văn bản không giấy, họp không gặp mặt, xử lý thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều này đòi hỏi sự thay đổi có tính căn cơ và tổng thế. Và muốn làm được điều đó cần có sự phối hợp của cả công dân số và chính quyền số. Cụ thể đối với chính quyền số, bên cạnh sự thay đổi trong tư duy và cách làm của người đứng đầu, còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đối với công dân số cần có sự thay đổi thói quen sống, văn hóa sống, kỹ năng số trong môi trường số, phù hợp với sự phát triển của chính quyền số. Đối với mỗi doanh nghiệp là đòi hỏi phải triển khai các giải pháp công nghệ số rất mới và rất tốn kém, chưa hoặc không thể hạch toán ngay được; trong khi môi trường pháp lý để triển khai cũng hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Bên cạnh đó, việc xây dựng chính sách, pháp luật và thể chế tổ chức thực hiện còn những mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra đối với một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp và công tâm phục vụ nhân dân, hay việc sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền các cấp sao cho tinh gọn để phù hợp với chính quyền số. Ngoài ra, rủi ro gặp phải khi phát triển chính quyền số là mất chủ quyền số của quốc gia, của tổ chức (cơ quan, doanh nghiệp,...) và cá nhân. Khi chính quyền, tổ chức, cá nhân chuyển nhiều hoạt động lên mạng internet sẽ dễ gặp phải vấn đề an toàn, an ninh đối với các hoạt động đó trên môi trường mạng. Đối với mỗi tổ chức, cá nhân rủi ro lớn nhất là bị lộ, lọt, thậm chí bị chiếm dữ liệu, tài khoản số và quyền riêng tư.
3. Giải pháp thúc đẩy bảo đảm quyền và trách nhiệm của công dân số trong chính quyền số
Một là, xây dựng, hoàn thiện hạ tầng bảo đảm quyền của công dân số
Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược này đã đưa ra những mục tiêu cho xã hội số đến năm 20256 gồm: (1) Phát triển dữ liệu số là cơ sở dữ liệu quốc gia về người dân, doanh nghiệp, đất đai đạt 100%. (2) Phát triển danh tính số, tỉ lệ dân số có danh tính số đạt 70%; mỗi danh tính số trung bình phát sinh 100 lượt sử dụng mỗi năm. (3) Phát triển thanh toán số, tỉ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử đạt 80%; tỉ lệ thanh toán thương mại điện tử không dùng tiền mặt đạt 50%; tỉ lệ thanh toán hóa đơn điện, nước không dùng tiền mặt đạt 75%. (4) Phát triển kỹ năng số, tỉ lệ công nhân tuyển dụng mới được đào tạo kỹ năng số đạt 70%; tỉ lệ công nhân được đào tạo lại, đào tạo nâng cấp kỹ năng đạt 70%; tỉ lệ nông dân được đào tạo về kỹ năng số cơ bản đạt tối thiểu 50%; tỉ lệ học sinh phổ thông, sinh viên được đào tạo kỹ năng số đạt 100%; tỉ lệ người dân có khả năng sử dụng các kỹ năng số cơ bản đạt 70%; tỉ lệ người dân mua hàng trên các sàn thương mại điện tử đạt 90%. (5) Phát triển nhân lực số: Tỉ lệ học sinh phổ thông tiếp cận với STEM/STEAM đạt 70%; tỷ lệ sinh viên ngành đào tạo liên quan đến STEM/STEAM đạt 30%; tổng số nhân lực công nghệ số đạt 1,5 triệu người; triển khai thí điểm 05 đại học số tại Việt Nam.
Hai là, phát triển kỹ năng số theo định hướng phổ cập kỹ thuật số toàn diện để hình thành một xã hội số công bằng, bao trùm, khơi dậy tiềm năng, sự tự hào Việt Nam và niềm tin của người dân trên không gian số, cụ thể (1) Xây dựng và tổ chức triển khai khung đào tạo kỹ năng số quốc gia hướng tới phổ cập kỹ năng số trong toàn dân; xây dựng nền tảng học trực tuyến mở (MOOC) về kỹ năng số phù hợp với Khung đào tạo kỹ năng số quốc gia; tập trung phát triển kỹ năng số cho người dân thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn sử dụng các dịch vụ số mà trọng tâm là dịch vụ công trực tuyến và các loại hình dịch vụ số trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, thương mại điện tử. Đồng thời, xây dựng phương pháp đo lường kỹ năng số, khoảng cách số phù hợp với thông lệ quốc tế. Hàng năm thực hiện đánh giá, công bố và có phương án cải thiện các chỉ số này ở cấp quốc gia và địa phương. (2) Rà soát, sửa đổi quy định, chính sách để đảm bảo tỷ lệ tối thiểu thời lượng đào tạo trực tuyến trong tổng thời gian đào tạo; xây dựng và tổ chức triển khai thí điểm mô hình Đại học số đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, an toàn, an ninh mạng; xây dựng và tổ chức triển khai Chương trình STEM/STEAM trong giáo dục phổ thông với lộ trình triển khai cụ thể; xây dựng mạng lưới hệ thống thư viện điện tử, các nền tảng tài nguyên giáo dục mở, thí điểm xây dựng và triển khai chương trình sách giáo khoa mở; xây dựng và tổ chức triển khai nền tảng quản lý nội dung học tập quốc gia dùng chung cho các cơ sở đào tạo tại các cấp học,...
Ba là, chuyển đổi số lấy người dân là trung tâm
Điện thoại di động thông minh là phương tiện chính của người dân trong thế giới số, vì vậy, chuyển đổi số lấy người dân là trung tâm trước hết phải trang bị phương tiện cho người dân, thông qua việc thực hiện phổ cập điện thoại di động thông minh, như: mỗi người dân một điện thoại thông minh; mỗi hộ gia đình một đường cáp quang. Trong đó ưu tiên những lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần ưu tiên chuyển đổi số trước, bao gồm: y tế, giáo dục và đào tạo, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, tài nguyên và môi trường, sản xuất công nghiệp.
Bốn là, xác định trách nhiệm cho công dân số
Đối với mỗi người dân: phải không ngừng học hỏi, không ngừng nâng cao nhận thức, mỗi ngày mỗi người tự học cho mình những điều mới. Điều gì chưa biết, hãy tìm hiểu, học hỏi và học từ những người xung quanh, từ những gì đã có sẵn, được chia sẻ từ những địa chỉ tin cậy. Điều gì đã biết, đã tâm đắc, hãy hướng dẫn, chia sẻ với những người xung quanh. Người trẻ hướng dẫn người già và trẻ em. Người biết nhiều hướng dẫn người biết ít, người biết ít hướng dẫn người chưa biết.Việc hướng dẫn, chia sẻ với mọi người kỹ năng số là giúp cho chính mình có một thế giới số an toàn, lành mạnh và tốt đẹp hơn.
Đối với người lãnh đạo và chuyên gia công nghệ số: việc chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện, cho nên ở mỗi tổ chức, việc thay đổi trước hết là trách nhiệm của lãnh đạo, bởi nếu lãnh đạo không thay đổi thì không ai dám làm và có thể làm. Song đây cũng là trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong tổ chức, đặc biệt chuyên gia công nghệ số với tư cách là người có khả năng và trách nhiệm biến vấn đề phức tạp thành giải pháp đơn giản.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp: cần nâng cao nhận thức về phát triển nền kinh tế số, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho việc thích ứng xu hướng phát triển này. Các doanh nghiệp cần tích cực chuẩn bị để nắm bắt cơ hội cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu, cần chủ động đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật số và đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin nhằm tích cực tham gia phát triển kinh tế số, trong đó nhanh chóng phát triển dịch vụ internet di động 5G, đầu tư mở rộng mạng lưới cáp quang tốc độ cao và tăng băng thông internet quốc tế. Trọng tâm phát triển kinh tế số là tập trung phát triển sản phẩm nội dung số, truyền thông số, quảng cáo số nhằm phát triển công nghiệp sáng tạo, hệ sinh thái nội dung số Việt Nam đa dạng, hấp dẫn.
Đối với cơ sở giáo dục - đào tạo: phải triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành các doanh nghiệp. Đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo công nghệ thông tin gắn với các xu thế công nghệ mới như internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, công nghệ robot,... Muốn vậy cần tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt.
Bảo đảm quyền và trách nhiệm của công dân số trong chính quyền số là yêu cầu tất yếu khách quan trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Muốn làm được điều đó cần có sự triển khai đồng bộ tất cả các biện pháp từ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và chính bản thân công dân số. Hi vọng trong thời gian tới, quyền và trách nhiệm của công dân số trong chính quyền số sẽ được đảm bảo hơn.
ThS. Quyền Hồng Nhung
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Trường Chính trị tỉnh Bắc Ninh
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 1/2023
-----
Tài liệu trích dẫn
(1) Xem: http://vietbacact.edu.vn/xem-tin-tuc/1881-Cong-dan-so-la-gi-Nhung-dac-diem-cua-cong-dan-so. Truy cập ngày 16/11/2022.
(2) Xem: http://tapchitaichinh.vn. Truy cập ngày 16/11/2022.
(3) Xem: https://moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin/bo-noi-vu-duoc-giao-cong-bo-chi-so-hai-long-ve-su-phuc-vu-hanh-chinh-nam-2021-va-chi-so-cai-cach-hanh-chinh-nam-2021-vao-quy-47411.html. Truy cập ngày 16/11/2022.
(4) Xem: https://moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin/bo-noi-vu-duoc-giao-cong-bo-chi-so-hai-long-ve-su-phuc-vu-hanh-chinh-nam-2021-va-chi-so-cai-cach-hanh-chinh-nam-2021-vao-quy-47411.html. Truy cập ngày 16/11/2022
(5) Xem: https://dangcongsan.vn/khoa-hoc-va-cong-nghe-voi-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc/tin-tuc-su-kien/hoi-thao-quoc-gia-ve-chinh-phu-dien-tu-nam-2021-590553.html. Truy cập ngày 16/11/2022.
(6) Xem: https://consosukien.vn/phat-trien-xa-hoi-so-mot-trong-nhung-tru-cot-vung-chac-cho-qua-trinh-chuyen-doi-so-quoc-gia.htm. Truy cập ngày 16/11/2022.