Biện pháp tạm giam có vai trò quan trọng trong quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn, phát hiện tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục gây khó khăn cho hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng… Thực tiễn đã chứng minh biện pháp này đã mang lại những hiệu quả nhất định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, đây là biện pháp nghiêm khắc và ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân, nhất là đối với người dưới 18 tuổi. 
 

1. Quy định bảo đảm quyền con người đối với người dưới 18 tuổi khi bị áp dụng biện pháp tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
a) Biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Luật Trẻ em năm 2016 của Việt Nam quy định “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”1, theo Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 “người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Như vậy, ở Việt Nam khái niệm về “trẻ em” ở không đồng nhất với quy định của quốc tế. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 11 Luật Thanh niên năm 2020, người chưa thành niên sẽ được hưởng các quyền về trẻ em đã được quy định trong pháp luật quốc tế và các văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam2. Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) là một trong những chủ đề được các nhà khoa học pháp lý và tội phạm học trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Tại Việt Nam trong những năm qua, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội đã và đang là vấn đề thời sự và được nghiên cứu để tìm ra các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như đề xuất phương phướng xử lý chủ yếu là giáo dục chứ không phải trừng trị. Chính vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã dành riêng một chương quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi tương đối phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế. Theo quy định của  BLTTHS hiện hành thì biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế mang tính chất nghiêm khắc nhất vẫn có thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. 
Căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam
Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp cần thiết và khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng các biện pháp giám sát và biện pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp giám sát, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh trước khi ra quyết định cuối cùng có nên áp dụng tạm giam hay không. Đồng thời, chỉ áp dụng khi đối tượng có các hành vi bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự3.
Theo quy định BLTTHS, tạm giam người dưới 18 tuổi có 02 trường hợp:
Tạm giam đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải có điều kiện sau:
- Một là: người dưới 18 tuổi phạm vào một trong các tội như: Tội Giết người, tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội Hiếp dâm, tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội Cướp tài sản, tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây: Điều 143 (tội Cưỡng dâm); Điều 150 (tội Mua bán người); Điều 151 (tội Mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 170 (tội Cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội Cướp giật tài sản); Điều 173 (tội Trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 248 (tội Sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội Tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội Vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội Mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội Chiếm đoạt chất ma túy); Điều 265 (tội Tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội Đua xe trái phép); Điều 285 (tội Sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội Phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội Cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều 299 (tội Khủng bố); Điều 303 (tội Phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
- Hai là: Khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS, cụ thể:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Tạm giam đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phải có điều kiện sau:
- Một là: Bị can bị điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Hai là: Khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS như đã trình bày ở phần trên.
Ngoài ra, bị can từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam đối với tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử (có thể đang bị áp dụng hoặc không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác) họ tiếp tục phạm tội mới, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Việc tạm giam trong những trường hợp nêu trên thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi tạm giam, người ra lệnh tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện hợp pháp của họ biết.
Thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi 
Quy định riêng thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi là một trong những điểm nhấn quan trọng của BLTTHS 2015. Theo Khoản 1 Điều 419, thời hạn tạm giam đối với bị can là người dưới 18 tuổi được rút ngắn (so với quy định của BLTTHS trước đây), bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Điều 173.
Thủ tục tạm giam
- Tạm giam phải có lệnh, quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền. Lệnh, quyết định tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh, quyết định; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam. Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, lập biên bản về việc bắt và giao cho người bị tạm giam một bản.
- Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng, tránh nhầm lẫn. Đồng thời thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết được sự việc để tránh những trường hợp phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết gây tốn kém.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam
- Khi áp dụng biện pháp tạm giam với người dưới 18 tuổi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm sinh lý và quá trình hình thành sự phát triển của một đứa trẻ. Do đó, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong những trường hợp thật sự cần thiết theo quy định tại điều 419 BLTTHS năm 20154 gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp.
+ Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Hủy bỏ biện pháp tạm giam
Khi có căn cứ cho rằng không còn căn cứ để tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác5 như: cấm đi khởi nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm, bảo lĩnh. Quy định này nhằm hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với người bị buộc tội. Bởi vì đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất và ảnh hưởng đến quyền con người, quyền của người dưới 18 tuổi đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và quy định của pháp luật quốc tế.

Các đối tượng chưa thành niên cải tạo tốt được đặc xá trước thời hạn. 
Nguồn: baokontum.com.vn.


b) Một số bất cập trong quy định về biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam so với chuẩn mực quốc tế
Đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em cho thấy, quy định về biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS năm 2015 đã có những tiến bộ nhằm bảo đảm các quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng. Nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, khi các cơ quan này còn xem “tạm giam” như làm một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để bảo đảm quá trình điều tra, cụ thể:
Thứ nhất, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp cần thiết
Quy định tại Điều 419 BLTTHS 2015 không nêu căn cứ để tạm giam đối với người dưới 18 tuổi6, vì vậy, biện pháp này được thực hiện theo khoản 1, khoản 2 Điều 119. Không phải người dưới 18 tuổi nào khi có căn cứ tạm giam đều áp dụng mà chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết7, quy định này nhằm mục đích hạn chế việc tạm giam. Cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình thực tế của vụ án để quyết định khi đã xem xét hết các biện pháp ngăn chặn khác và nhận định rằng đây là biện pháp cuối cùng nhằm bảo đảm hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thì tạm giam chỉ áp dụng khi “đã áp dụng biện pháp giám sát, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh nhưng bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự”. Đồng thời, quy định biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chỉ được áp dụng khi người dưới 18 tuổi đã bị tạm giam và khi cần thay thế biện pháp ngăn chặn khác 8. Như vậy, các biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc bảo lĩnh đã không được pháp luật quy định là lựa chọn ưu tiên hàng đầu cùng với cấm đi khởi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Do đó, nếu không thỏa mãn được căn cứ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc không cần phải áp dụng tạm hoãn xuất cảnh thì chuyển sang tạm giam trong các trường hợp đã được hướng dẫn. Theo tác giả, đây là điểm bất cập trong quy định pháp luật, làm tăng khả năng bị tạm giam của người dưới 18 tuổi khi mà các biện pháp như: bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chưa được xếp vào hàng được ưu tiên trước khi tiến hành biện pháp tạm giam.
Bên cạnh đó, căn cứ áp dụng tạm giam tại khoản 1, 2 Điều 119 được xây dựng dựa trên sự phân loại tội phạm gồm: tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm. Quy định này cho thấy, tất cả người dưới 18 tuổi đều có thể bị áp dụng tạm giam bởi vì đã bao hàm hết tất cả phân loại tội phạm theo quy định của BLHS. Đây là điều chưa hợp lý đối với người dưới 18 tuổi, khi BLTTHS chưa có một ranh giới về áp dụng tạm giam đối với người dưới 18 tuổi và người trên 18 tuổi phạm tội.
Tại điểm b khoản 2 Điều 119, người dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm có thể áp dụng biện pháp tạm giam khi “không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can” cũng là một trong những bất cập trong thực tiễn. Bởi lẽ, theo Luật Cư trú hiện nay thì “nơi cư trú của công dân gồm nơi thường trú, tạm trú”9. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa chỉ xảy ra các trường hợp là: có nơi cư trú hoặc không có nơi cư trú; không có trường hợp “nơi cư trú không rõ ràng” mà trong thực tiễn chỉ có trường hợp đối tượng có nơi cư trú nhưng không thường xuyên sinh sống, học tập ở đó. Do vấn đề này chưa được hướng dẫn nên có thể dẫn đến cách hiểu sai và áp dụng sai. Ngoài ra, nếu đối tượng không có đăng ký thường trú, tạm trú nhưng vẫn thường xuyên sinh sống trên một địa bàn nhất định (có nơi ở) thì được hiểu như thế nào. Trong khi đó, theo quy định nơi ở hiện tại được hiểu là “nơi thường trú hoặc nơi tạm trú mà công dân đang thường xuyên sinh sống; trường hợp không có nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi ở hiện tại là nơi công dân đang thực tế sinh sống”10. Như vậy, theo tác giả, đối với người dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội, có thể gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử khi không có nơi thường xuyên cư trú, sinh sống thì đúng nghĩa hơn. Mặt khác, bắt đầu từ ngày 01/07/2022, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú tuy được xóa bỏ nhưng đây chỉ là về hình thức, công dân vẫn phải đăng ký thường trú, tạm trú với cơ quan chức năng nên quy định này cần phải được xem xét và khắc phục hạn chế của nó.
Ngoài ra, căn cứ áp dụng biện pháp tạm gian còn một vấn đề bất cập so với quy định phân loại tội danh của BLHS. Khoản 4, Điều 419 BLTTHS năm 2015 quy định: “Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”. Theo quy định của BLHS, tội ít nghiêm trọng có khung hình phạt đến 3 năm tù11, như vậy, BLTTHS năm 2015 chưa có sự đồng nhất với BLHS; đồng thời, đã làm tăng khả năng bị tạm giam đối với người dưới 18 tuổi khi tội mà họ thực hiện có khung hình phạt đến 3 năm tù. 
Thứ hai, thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi
BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người từ 18 tuổi trở lên (khoản 1 Điều 419). Theo đó, thời hạn tạm giam để điều tra cụ thể là: không quá 40 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng 20 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng12. Tuy nhiên, điều này lại không nói đến có hay không việc gia hạn tạm giam. Do đó, người dưới 18 tuổi vẫn có thể bị gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét thấy cần phải gia hạn điều tra. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 01 lần không quá 20 ngày; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 01 lần không quá 40 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 01 lần không quá 02 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 02 lần, mỗi lần không quá 02 tháng 20 ngày. Như vậy, về gia hạn tạm giam, BLTTHS không có phân biệt giữa người dưới 18 tuổi và người đủ 18 tuổi. 
Mặt khác, Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự có 2 phân loại độ tuổi gồm: người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội nhất định đã cho thấy chính sách hình sự nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi. Căn cứ vào những quy định pháp luật khác có liên quan thì người từ 16 tuổi trở xuống là “trẻ em” nhưng BLTTHS lại chưa có sự phân biệt giữa 2 độ tuổi này nên thực tế, cơ quan có thẩm quyền tố tụng đều có thể gia hạn tạm giam đối với 2 nhóm tuổi này. Điều đó cho thấy, BLTTHS đang “đánh đồng” hai nhóm tuổi như trên “là người dưới 18 tuổi” là đều chưa hợp lý. Trong khi đặc điểm, tính chất, tâm lý, trách nhiệm hình sự của hai nhóm này cũng có sự khác nhau.
Gia hạn tạm giam để điều tra là đang kéo dài sự ám ảnh đối với người dưới 18 tuổi khi tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự. Hướng dẫn làm việc với trẻ em trong tư pháp hình sự, 1997 (Guidelines for Action on Children in the Criminal Justice System 1997) nêu rõ, cần giảm thiểu việc đưa trẻ em vào các cơ sở tập trung kín; việc cách ly trẻ em như vậy chỉ nên thực hiện phù hợp với điều 37(b)13 của Công ước về quyền trẻ em và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, áp dụng trong một thời gian ngắn. Như vậy, quy định được phép gia hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi khi chưa phân loại độ tuổi là điều chưa hợp lý và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. 
Thứ ba, thời hạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi (có ảnh hưởng đến biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi)
BLTTHS năm 2015 không quy định thời hạn điều tra riêng đối với bị can là người dưới 18 tuổi mà thời hạn này được áp dụng giống như người từ 18 tuổi trở lên. Thời hạn điều tra kéo dài cũng là một trong những bất lợi đối với người dưới 18 tuổi, khi phải liên tục tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự. Đồng thời, quy định này vô tình làm cho quy định hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi không có điều kiện áp dụng trong thực tiễn. Bởi vì khi hết thời hạn tạm giam, cơ quan tiến hành tố tụng thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng một biện pháp ngăn chặn khác là tình thế bắt buộc chứ không phải xuất phát từ những quy định của BLTTHS. Như vậy, khi thời hạn điều tra vụ án chưa phân định giữa người đủ 18 tuổi và dưới 18 tuổi dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi trong quy định của pháp luật.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người đối với người dưới 18 tuổi khi bị áp dụng biện pháp tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự 
BLTTHS năm 2015 quy định các “biện pháp ngăn chặn” có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng đây là hoạt động khá nhạy cảm, dễ xảy những hành vi vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của công dân từ phía những người có thẩm quyền, nhất là khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi. Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật đã nêu ở trên, bảo đảm tốt nhất các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, tác giả đề xuất, kiến nghị sửa đổi một số quy định về biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi như sau: 
Thứ nhất, hoàn thiện căn cứ, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi
Hiện nay, các nước trên thế giới đang theo xu hướng xác định căn cứ để xem xét áp dụng tạm giam bao gồm: không có chỗ ở cố định; che giấu chứng cứ; bỏ trốn hoặc có lý do chính đáng nghi ngờ bị can bỏ trốn (Nga, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản); xác định bị can đã bỏ trốn; xét tới các tình tiết của vụ án cụ thể, có khả năng bị can sẽ bỏ trốn; hành vi của bị can dẫn tới nghi ngờ có căn cứ rằng bị can sẽ: phá huỷ, thay đổi, di chuyển, giấu hoặc làm giả chứng cứ; tác động không đúng đắn tới đồng phạm, nhân chứng, chuyên gia; khiến người khác làm những việc nêu trên, do đó có nguy cơ làm cho việc xác định sự thật của vụ án sẽ khó khăn hơn (Đức). Ngoài ra, một số nước quy định các căn cứ cụ thể khác như: không xác định được nhân thân bị can; bị can vi phạm biện pháp ngăn chặn khác đã được áp dụng trước đó; đã trốn tránh cơ quan điều tra hoặc tòa án (Nga); không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ liên quan đến biện giám sát tư pháp đã được áp dụng (Pháp); để bảo vệ chứng cứ, ngăn chặn làm giả, tiêu hủy chứng cứ, bảo vệ đương sự, ngăn chặn việc gây áp lực đối với người bị hại, người làm chứng hoặc thông đồng với người đồng phạm; ngăn ngừa việc tiếp tục phạm tội, đảm bảo giữ gìn trật tự xã hội (Pháp, Trung Quốc); có nguy hại rõ ràng đối với an ninh quốc gia, an ninh công cộng hoặc trật tự xã hội; có ý định tự sát hoặc bỏ trốn (Trung Quốc). Do vậy, BLTTHS nước ta cần nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm của các nước trong việc quy định chặt chẽ căn cứ áp dụng tạm giam để hạn chế việc lạm dụng tạm giam nhằm bảo đảm tốt việc thực hiện quyền của người bị buộc tội nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng. Thay vì quy định đối tượng bị tạm giam như phân loại tội phạm hiện nay thì chúng ta có thể đưa ra một số trường hợp có thể áp dụng tạm giam đối với người dưới 18 tuổi khi: không có nơi thường xuyên sinh sống hoặc không xác định được lý lịch của bị can; nhân thân xấu; có dấu hiệu bỏ trốn, đã bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; có căn cứu bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc chuẩn bị phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. 
Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 419 theo hướng “bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý mà BLHS quy định hình phạt tù đến 03 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ tạm giam....” nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi.
Thứ hai, sửa đổi về thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi.
Thời hạn tạm giam để điều tra nên quy định theo hướng phân định theo nhóm tuổi gồm: nhóm tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi14 và nhóm từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm cao nhất quyền của trẻ em và chính sách hình sự của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi. Đồng thời, xuất phát từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, vấn đề gia hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi nhìn chung vẫn phát huy được hiệu quả của nó. Để bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi, tác giả kiến nghị: đối với nhóm tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thời hạn tạm giam là 1/2 so với người đủ 18 tuổi và không gia hạn tạm giam; đối với nhóm tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thời hạn tạm giam là 2/3 so với người thành niên và được gia hạn tạm giam. 
Thứ ba, nghiên cứu về thời thời hạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi phù hợp với thời gian áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi.
BLTTHS năm 2015 đã quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi không quá 2/3 đối với người từ 18 tuổi trở lên thì thời hạn điều tra đối với các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện cũng cần phải được rút ngắn cho tương thích nhằm bảo đảm các quyền con người đối với người dưới 18 tuổi. Thực tế cho thấy, thời hạn điều tra ngắn buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải tập trung điều tra nhanh và như vậy thì quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi sẽ ít bị vi phạm.
 

TS. Trịnh Duy Thuyên

Khoa Luật, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 1/2023

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Xem Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016.
(2) Điều 11 Luật Thanh niên năm 2020 “Nhà nước thực hiện Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn áp dụng đối với Thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phù hợp với điều kiện Việt Nam”.
(3) Xem Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi.
(4) Khoản 1 ĐIều 419 BLTTHS năm 2015 “chỉ áp dụng Biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp cần thiết”.
(5) Xem Điều 125 BLTTHS năm 2015.
(6) Điều 413 BLTTHS năm 2015 “Thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”.
(7) Khoản 1 Điều 419, BLTTHS 2015.
(8) TLđd, số 29, Đoạn 2.
(9) Xem Điều 11 Luật cư trú năm 2020.
(10) Xem khoản 10 Điều 2 Luật cư trú năm 2020.
(11) Xem Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
(12) Tỉ lệ 2/3 được tác giả tính toán dựa trên quy định tại Điều 173 BLTTHS năm 2015.
(13) Article 37 Convention on the right of the Child: “(b) No child shall be deprived of his or her liberty unlawfully or arbitrarily. The arrest, detention or imprisonment of a child shall be in conformity with the law and shall be used only as a measure of last resort and for the shortest appropriate period of time”.
(14) Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nhóm tuổi này là trẻ em