Trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi quyền con người trở thành giá trị cốt lõi của sự phát triển bền vững, việc giảng dạy đạo đức nghề nghiệp trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với việc xây dựng một thế hệ sinh viên có trách nhiệm và nhận thức sâu sắc về quyền con người. Đạo đức nghề nghiệp không chỉ giúp sinh viên nắm vững các chuẩn mực hành xử trong môi trường công việc mà còn thúc đẩy ý thức bảo vệ và tôn trọng quyền con người trong đời sống xã hội.
Ảnh minh họa. Nguồn: tuoitre.vn
Đặt vấn đề
Vai trò của giảng dạy đạo đức nghề nghiệp trong giáo dục quyền con người ở các trường đại học
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi quyền con người trở thành giá trị cốt lõi của sự phát triển bền vững, việc giảng dạy đạo đức nghề nghiệp trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với việc xây dựng một thế hệ sinh viên có trách nhiệm và nhận thức sâu sắc về quyền con người. Đạo đức nghề nghiệp không chỉ giúp sinh viên nắm vững các chuẩn mực hành xử trong môi trường công việc mà còn thúc đẩy ý thức bảo vệ và tôn trọng quyền con người trong đời sống xã hội. Ở Việt Nam, việc tích hợp giáo dục đạo đức nghề nghiệp vào chương trình giáo dục quyền con người trong các trường đại học góp phần nâng cao hiểu biết, phát triển tư duy và trách nhiệm nghề nghiệp, giúp sinh viên ý thức được tác động của các quyết định và hành động của mình đến quyền lợi và sự an toàn của người khác.
Trong môi trường học đường, giảng dạy đạo đức nghề nghiệp còn giúp sinh viên nhìn nhận rõ hơn vai trò của chính họ trong việc góp phần xây dựng một xã hội công bằng, nơi quyền con người được tôn trọng và bảo vệ. Thông qua việc giảng dạy này, các trường đại học không chỉ đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng chuyên môn mà còn nuôi dưỡng các giá trị đạo đức cốt lõi, góp phần tạo ra một lực lượng lao động hiểu biết, nhân văn và sẵn sàng hành động vì cộng đồng.
1. Cơ sở lý luận và pháp lý của giáo dục quyền con người trong các trường đại học thông qua giảng dạy đạo đức nghề nghiệp
Vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân đã được Liên Hợp Quốc giành hẳn một thập kỷ làm “Thập kỷ giáo dục nhân quyền,,[1] với mục đích là xây dựng một nền văn hóa quyền con người toàn cầu và giáo dục quyền con người ở mọi cấp độ cho tất cả mọi người- là nền tảng xây dựng mối quan hệ hợp tác trên phạm vi toàn thế giới- thúc đẩy sự khoan dung khi chúng ta nói về quyền sống, quyền phát triển hoặc về quyền được bất đồng quan điểm, về việc chấp nhận sự khác biệt trong cách tiếp cận văn hóa về quyền con người ở mỗi quốc gia thành viên.
Để thực hiện những mục đích tự thân của quyền con người trong cuộc sống trên toàn cầu, ngăn chặn những vi phạm quyền con người, làm cho quyền con người cùng với hòa bình, dân chủ và phát triển thì giáo dục quyền con người trở thành những nguyên tắc chỉ đạo của thế kỷ XXI. Quan điểm giáo dục quyền con người của Liên hợp quốc bao gồm:
- Mục đích của giáo dục quyền con người nhằm, xây dựng một nền văn hóa quyền con người toàn cầu và cho phép mọi người được hưởng các quyền;
- Nội dung của giáo dục quyền con người: là toàn bộ các quyền con người được ghi nhận trong tuyên ngôn và các điều ước quốc tế về quyền con người;
- Đối tượng của giáo dục quyền con người: Tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại không phận biệt già trẻ, gái trai, chủng tộc, màu da, tôn giáo…đều có quyền được giáo dục quyền con người;
Việt Nam là thành viên của nhiều điều ước quốc tế về quyền con người [2]và các cam kết hưởng ứng các tuyên ngôn, tuyên bố quốc tế về quyền con người và ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Với tư cách là một thành viên tích cực trên các diễn đàn của Liên hợp quốc cùng việc phải thực thi các nghĩa vụ của một quốc gia thành viên điều ước, Việt Nam phải nội luật hóa nội dung các điều ước quốc tế về quyền con người vào trong hệ thống pháp luật quốc gia đồng thời phải tuyên truyền, phổ biến giáo dục các quyền con người nhằm nâng cao tri thức về quyền của mọi giai tầng trong xã hội, đặc biệt là các cán bộ công chức, viên chức. Nhất là trong điều kiện Việt Nam đang dẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra từ Đại hội VIII và được tiếp tục khẳng định tại Đại hội IX, Đại hội XI của Đảng (1-2011). “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(7). [3] Song song với việc xác định nguyên tắc kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền, Đại hội XI của Đảng còn khẳng định rõ hơn quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa, hiến định nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đặc trưng phổ quát của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa và ngăn chặn sự lộng quyền, lạm quyền, vượt quá sự ủy quyền của nhân dân. Phải tạo ra cho được ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước; Xác định đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng một thể chế minh bạch; Xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ có tính ổn định cao và tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước.
Như vậy cùng với giáo dục pháp luật và các dạng giáo dục khác thì giáo dục quyền con người, quyền công dân là trực tiếp đóng góp vào việc tạo ra các giá trị của Nhà nước pháp quyền và là yếu tố thúc đẩy nhanh hình thành Nhà nước pháp quyền trên thực tiễn. Bởi:
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân nhằm nâng cao tri thức quyền con người, quyền công dân cho các thành viên xã hội.
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân góp phần xây dựng thái độ tôn trọng những giá trị cao quí của quyền con người cho các thành viên trong xã hội nói chung và cđội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước nói riêng.
- Giáo dục quyền con người, quyền công dân là tạo cho cá nhân có ý thức tự vệ, tự đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cảu người khác khi phát hiện đã có sự vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Vậy vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân là mục đích tự thân của quá trình xây dựng đất nước.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Điều này đã được ghi nhận tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 :
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Song, để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra từ Đại Hội VIII và được tiếp tục khẳng định tại Đại Hội IX phải tạo ra cho được ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước; Xác định đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân, trong đó công dân chiếm địa vị chủ yếu. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân bằng một thể chế minh bạch. Xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ có tính ổn định cao và tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Như vậy cùng với giáo dục pháp luật và các dạng giáo dục khác thì giáo dục quyền con người là trực tiếp đóng góp vào việc tạo ra các giá trị của Nhà nước pháp quyền và là yếu tố thúc đẩy nhanh xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa thành công trên thực tiễn.
Giáo dục quyền con người, nhằm nâng cao tri thức quyền con người, quyền công dân cho các thành viên xã hội.
Giáo dục quyền con người để tăng cường sự hiểu biết và lòng khoan dung, góp phần xây dựng thái độ tôn trọng những giá trị cao quí của quyền con người cho các thành viên trong xã hội nói chung và đặc biệt là đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước - với tư cách là chủ thể có nghĩa vụ trong việc tổ chức thực hiện quyền của người dân.
Giáo dục quyền con người nói chung và giáo dục quyền con người trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp nói riêng là tạo ra ý thức về tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của người khác, thúc đẩy phát triển xã hội một cách hài hòa, ổn đinh bền vững và mang tính nhân văn. Giáo dục quyền con người trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp là giúp người học hiểu các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người là chưa đủ, mà cần được trợ giúp thêm kỹ năng thông qua giáo dục, đào tạo để có thể áp dụng được các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người trong cuộc sống hàng ngày hay trong công việc nghề nghiệp của họ; họ cần nhận thức được trách nhiệm, khả năng của mình trong việc tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền con người. Ba mục tiêu nêu trên tạo nên cách tiếp cận về năng lực trong giáo dục quyền con người, chúng có quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất của giáo dục quyền con người. Thiếu tri thức thì không thể xây dựng được kỹ năng, thiếu kỹ năng thì không thể áp dụng được pháp luật vào thực tiễn để bảo vệ quyền con người; và thiếu cả hai nhân tố này thì việc xây dựng quan điểm sẽ không có yếu tố bền vững, mang tính chất giáo điều, thành quan điểm “suông”, có thể vi phạm quyền con người. Nói cách khác, giáo dục quyền con người phải bao gồm: Giáo dục về quyền con người; Giáo dục thông qua quyền con người; và Giáo dục vì quyền con người.
Vậy vấn đề giáo dục quyền con người chính là mục đích tự thân của quá trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên có thể xuất phát từ quan điểm cho rằng, giáo dục pháp luật đã bao hàm giáo dục cả quyền con người, do vậy trong thời gian qua các nhà Luật học nước ta mới chỉ tập trung nghiên cứu giáo dục pháp luật mà chưa quan tâm nghiên cứu vấn đề giáo dục quyền con người, nhất là trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
Nếu coi sự hình thành ý thức về quyền con người, quyền công dân và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước là sản phẩm, là kết quả của các ảnh hưởng điều kiện khách quan và sự tác động có tính định hướng của nhân tố chủ quan - tức là hoạt động giáo dục, thì trong thời gian qua chúng ta chưa thực sự chú trọng vấn đề giáo dục quyền con người từ cấp học phổ thông cho đến giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức, quan chức lạm dụng quyền lực nhà nước, nhũng nhiễu người dân, tham ô, tham nhũng”. Lạm dụng quyền lực nhà nước vì phạm quyền của người dân, làm mất lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước vào chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là một vấn đề đạo đức rất đa chiều và khó thay đổi hơn nhiều so với pháp luật. Như vậy các quy phạm pháp luật về quyền con người không được phổ biến, tuyên truyền giáo dục để mỗi cán bộ công chức, viên chức hiểu quyền và trách nhiệm nghĩa vụ của mình cũng như tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân – (với tư cách là chủ thể quyền) thì nhà nước không thể phát hiện hết các vi phạm pháp luật - vi phạm quyền con người để trừng phạt, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội nói chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng đã lộ rõ. Vì thế bất cứ nghề gì cũng cần có đạo đức nghề nghiệp và cần phải đưa giáo dục quyền con người vào trong quá trình giáo dục đạo đức nghề nghiệp để tạo ra giá trị, lơi ích cho xã hội.
Theo Tài liệu hướng dẫn về giáo dục quyền con người của Mạng lưới an ninh con người: Ba mục tiêu thiết yếu sau phải là nền tảng và sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho các chương trình giáo dục về quyền con người:
i) Chuyển giao tri thức và thông tin (thế nào là quyền con người, tiêu chuẩn quyền con người, bảo vệ quyền con người ? quyền con người có ý nghĩa như thế nào với cuộc sống thường nhật và hành động của người học);
ii) Xây dựng kỹ năng (trao quyền cho người học, sống, làm việc và hoàn thành các nhiệm vụ tôn trọng và thực thi quyền con người);
iii) Hình thành quan điểm (xác định giá trị, tìm ra thái độ tiêu cực, sửa chữa chúng và chấp nhận quan điểm mới)[4].
Đạo đức nghề nghiệp là một yếu tố quan trọng để phát triển sự nghiệp. Nó quyết định khả năng tồn tại của người lao động trong thị trường lao động. Đạo đức nghề nghiệp thể hiện ngay trong cách người lao động phản ứng trước những tình huống trong cuộc sống công sở hàng ngày.
Nghề nào cũng cần đạo đức nghề nghiệp. Mỗi nghề có đặc thù riêng, có các giá trị nghề nghiệp khác nhau do đó cần có Bộ Quy tắc đạo đức nghề nghiệp riêng cho phù hợp với đặc thù từng nghề.
2. Thực trạng giáo dục quyền con người tại các trường đại học thông qua giảng dạy đạo đức nghề nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật đã bao hàm giáo dục cả quyền con người và quyền công dân, do vậy trong thời gian qua các nhà Luật học nước ta mới chỉ tập trung nghiên cứu giáo dục pháp luật mà chưa quan tâm nghiên cứu vấn đề quyền con người, quyền công dân.
Nếu coi sự hình thành ý thức về quyền con người, quyền công dân và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước là sản phẩm, là kết quả của các ảnh hưởng điều kiện khách quan và sự tác động có tính định hướng của nhân tố chủ quan- tức là hoạt động giáo dục ,thì trong thời gian qua chúng ta chưa thực sự chú trọng vấn đề giáo dục quyền con người , quyền công dân.
Thực tế trên thế giới đã chứng minh tính hữu ích và hiệu quả của việc nhận thức làm thay đổi hành vi đối với việc tôn trọng quyền con người của các cá nhân ngay từ khi còn trẻ thông qua việc triển khai giáo dục. Trong bối cảnh chung đó thì vào năm 1994 sự ra đời của trung tâm nghiên cứu quyền con người nay là Viện Quyền con người thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, với chức năng nghiên cứu và giảng dạy, giáo dục quyền con người ,quyền công dân được triển khai chủ yếu trong hệ thống Học viện với các đối tượng học viên là cán bộ lãnh đạo quản lý ở địa phương và trung ương thì tầm ảnh hưởng của giáo dục quyền con người, quyền công dân đã có bước tiến đáng kể, cụ thể là:
Giáo dục quyền con người, quyền công dân trong hệ thống học viện và các phân viện của Học viện gồm: phân viện I tại Hà Nội; phân viện II tại TP Hồ Chí Minh; phân viện III tại Đà Nẵng và Phân viện IV, tại Cần Thơ ;
Biên soạn hàng trăm các loại tài liệu giáo trình, giáo khoa sách chuyên khảo, tham khảo, dùng cho hệ cử nhân chính trị và hệ Cao cấp lý luận và các tài liệu về quyền con người, quyền công dân;
Chỉ đạo, hướng dẫn nội dung chương trình bồi dưỡng giảng viên cho các phân viện của Học viện và 63 trường chính trị tỉnh, thành trong cả nước.
Hoạt động giảng dạy về quyền con người, quyền công dân qua bộ môn : “Lý luận về quyền con người với số lượng hàng trăm lớp hệ cử nhân và cao cấp lý luận với hàng nghìn lượt học viên và từ năm 2009 đến nay giáo dục quyền con người , quyền công dân trong hệ Cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật tại Học viện. Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Nhưng đó mới chỉ là con số khiêm tốn so với mục tiêu “phổ cập” kiến thức về quyền con người trong giảng dạy đạo đức nghề nghiệp trong quá trình đào tạo Đại học hiện nay ở tất cả các ngành nghề cũng cần có đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết về quyền con người để biết quyền và lợi ích của người khác trong khi thi hành công vụ. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này xin được đề cập đến ba ngành đào tạo vừa qua được xã hội quan tâm nhất đó là giáo dục, y tế và nghề luật.
*Giáo dục đạo đức Nhà giáo
Đạo đức nhà giáo là vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu. Bởi giáo viên là đội ngũ giảng dạy, là lớp thầy của tất cả các học sinh. Để học sinh tốt được, mình phải là tấm gương sáng về nhân cách và trí tuệ. Đạo đức nhà giáo là những chuẩn mực mà đối với mỗi giáo viên nào khi tiến hành giảng dạy và ngồi trên bục giảng đều phải có.
Tiêu chuẩn đạo đức của nhà giáo
Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Theo quy định tại Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT thì tiêu chuẩn về đạo dức nhà giáo như sau:
Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.
Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Về lối sống, tác phong
Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
Về giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.
Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.
Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như : cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.
*Giáo dục đạo đức nghề y
Nghề y đòi hỏi trách nhiệm kép đối với người hành nghề vừa phải giỏi chuyên môn (y nghiệp) vừa phải như mẹ hiền (y đức). Ở nước ta, y đức vừa có bản chất là luật luân lí vừa có bản chất luật pháp. Y đức với chức năng là luật luân lý giúp Điều người làm nghề y như Bác sỹ, Điều dưỡng, y tá viên nhận thức những cái tốt, cái đúng, cái sai giúp các cán bộ viên chức ngành Y đưa ra các quyết định có đạo đức và phù hợp với đặc thù nghề nghiệp khi hành nghề. Mặt khác, Y đức cũng được đưa vào Luật khám bệnh chữa bệnh và một số quy chế của Bộ Y tế nên trở thành yêu cầu bắt buộc Thầy thuốc và Điều dưỡng viên phải thực hiện trong quá trình hành nghề.
Ngày 06 tháng 11 nǎm 1996 Bộ trưởng Bộ Y tế ra Quyết định số: 2088/ QĐ-BYT về ban hành Tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế.
Ngày 25/02/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 07/2014/TT-BYT Quy định về Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế. Năm 2015, Bộ trưởng Bộ Y tế đã kêu gọi toàn thể CBCC,VC,LĐ ngành Y tế nghiêm túc thực hiện cam kết 07 nội dung theo Quyết định: 2151/QĐ-BYT ngày 04 tháng 06 năm 2015 về Kế hoạch triển khai thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”. Đó là những văn bản chỉ đạo định hướng trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho CB, CC, VC, NLĐ đang làm việc tại các cơ sở y tế.
Thông tư 07/2014/TT-BYT ngày 25 tháng 02 năm 2014 của Bộ Y tế“Quy định về Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế” có quy định những việc cán bộ y tế phải làm và những việc không được làm. Cụ thể:
Những việc phải làm bao gồm : Thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về nghĩa vụ của công chức, viên chức; Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của người thầy thuốc theo quan điểm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Có ý thức tổ chức kỷ luật; thực hiện đúng quy trình chuyên môn, nghiệp vụ, nội quy, quy chế làm việc của ngành, của đơn vị; Học tập thường xuyên nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp, ứng xử; Phục tùng và chấp hành nhiệm vụ được giao; chủ động, chịu trách nhiệm trong công việc; Đóng góp ý kiến trong hoạt động, điều hành của đơn vị nhằm bảo đảm thực hiện công vụ, nhiệm vụ được giao đạt hiệu quả; Giữ uy tín, danh dự cho đơn vị, cho lãnh đạo và đồng nghiệp; Mặc trang phục, đeo thẻ công chức, viên chức đúng quy định; đeo phù hiệu của các lĩnh vực đã được pháp luật quy định (nếu có).
Những việc không được làm: Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác công việc hoặc nhiệm vụ được giao; Lạm dụng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và danh tiếng của cơ quan, đơn vị để giải quyết công việc cá nhân; tự đề cao vai trò của bản thân để vụ lợi; Phân biệt đối xử về dân tộc, nam nữ, các thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.
Người bệnh được luật pháp trao quyền được khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng và được đối xử thân thiện, tôn trọng. Những quyền của người bệnh được thể hiện tại Luật Khám bệnh, chữa bệnh trong các Điều như Điều 3 về hành nghề khám chữa bệnh; Điều 6 các hành vi bị cấm; Điều từ 7-13 về quyền người bệnh và điều từ 36-39 về nghĩa vụ của người hành nghề y.
Dịch vụ Chăm sóc sức khỏe do cơ sở y tế cung cấp trực tiếp tác động tới sự hài lòng của người bệnh, người dân và là một trong các trụ cột của dịch vụ y tế. Điều dưỡng viên, y tá có vai trò rất quan trọng trong việc mang lại sự hài lòng cho người bệnh; Bảo đảm an toàn cho người bệnh; Chịu trách nhiệm cá nhân về mọi quyết định và hành vi chuyên môn trong chăm sóc người bệnh; Can thiệp kịp thời và báo cáo cho người phụ trách khi phát hiện các hành vi thực hành của người hành nghề không bảo đảm an toàn cho người bệnh.Tôn trọng người bệnh và người nhà người bệnh; Tôn trọng tuổi, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng của người bệnh.;Tôn trọng quyền tự quyết của người bệnh trong khi thực hành chăm sóc.Tôn trọng danh dự, nhân phẩm và bảo đảm kín đáo tốt nhất có thể cho người bệnh khi chăm sóc và làm thủ thuật. Giữ gìn những bí mật liên quan đến bệnh tật và cuộc sống riêng tư của người bệnh. Đối xử công bằng với mọi người bệnh; Thân thiện với người bệnh và người nhà người bệnh;
Lắng nghe người bệnh, người nhà người bệnh và đáp lại bằng câu nói ân cần với cử chỉ lịch sự. Cung cấp dịch vụ chăm sóc kèm theo nụ cười thân thiện; Giúp người bệnh giảm nhẹ đau đớn do bệnh tật và do phẫu thuật, thủ thuật; Trung thực trong khi hành nghề; Trung thực trong việc quản lý, sử dụng thuốc và vật tư tiêu hao cho người bệnh.
*Giáo dục đạo đức nghề Luật
Đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa là nguồn, là gốc, là nền tảng cơ bản của nghề luật trong đó có Thẩm phán, Luật sư. Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề luật sư không thể tồn tại, phát triển, cả thẩm phán và luật sư, với mục tiêu phụng sự công lý, bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí . Đây không chỉ là nghĩa vụ công dân nói chung mà còn là nghĩa vụ đạo đức cơ bản của luật sư. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng là hoạt động góp phần vào bảo vệ công lý và xây dựng nhà nước pháp quyền thì trước hết phải xuất phát từ một nền tảng đạo đức.
Ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia) Ban hành kèm theo Quyết định số 87/QĐ-HĐTC Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán
Theo đó những chuẩn mực của Thẩm phán bao gồm:
- Tính độc lập: Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán tự quyết định trên cơ sở đánh giá của mình về tình tiết vụ việc, chứng cứ và chỉ tuân theo pháp luật; giữ gìn bản lĩnh nghề nghiệp để không bị tác động từ bất kỳ sự can thiệp nào. Thẩm phán phải độc lập với các thành viên của Hội đồng xét xử; độc lập với những người tiến hành tố tụng khác; độc lập với các yếu tố tác động từ trong nội bộ và bên ngoài Tòa án. Thẩm phán không được can thiệp vào hoạt động tố tụng của các thành viên Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác.
- Sự liêm chính: Thẩm phán phải liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực.Thẩm phán không được lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cho mình hoặc cho người khác; không để các thành viên trong gia đình, cán bộ, công chức Tòa án dưới quyền quản lý của mình đòi hỏi hoặc nhận tiền, tài sản, những lợi ích khác từ bất kỳ ai vì lý do liên quan đến công việc mà Thẩm phán giải quyết.
- Sự vô tư, khách quan: Thẩm phán phải vô tư, khách quan; thực hiện nhiệm vụ một cách đúng đắn, không vì lợi ích cá nhân, không thiên vị bất cứ bên nào trong vụ việc. Thẩm phán phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét công khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ việc.
- Sự công bằng, bình đẳng
Thẩm phán có trách nhiệm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng để những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của họ trong quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa án.Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán không được và không cho phép các hành vi bất bình đẳng, phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hình thức sở hữu và thành phần kinh tế của cá nhân, pháp nhân.
- Sự đúng mực: Trong mọi hoạt động của mình, Thẩm phán phải hành xử đúng mực, lịch thiệp, thận trọng; duy trì trật tự và sự tôn nghiêm trong quá trình tố tụng; luôn thể hiện sự kiên nhẫn, nhân ái đối với các bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác. Tại phiên tòa, phiên họp hoặc trong các văn bản tố tụng, Thẩm phán không được đưa ra những nhận định gây xúc phạm người khác.
- Sự tận tụy và không chậm trễ: Thẩm phán phải tận tụy với công việc và cống hiến hết mình trong việc thực hiện nhiệm vụ tư pháp nhằm giải quyết nhanh nhất các vụ việc được giao. Khi giải quyết các vụ việc, Thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật, không để các vụ việc quá hạn luật định vì những nguyên nhân chủ quan.
3. Phương hướng lồng ghép giáo dục quyền con người trong các trường đại học thông qua vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
Như chúng ta đã biết giáo dục Đại học là giáo dục bậc cao mà sản phẩm của nó là nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho xã hội giúp nâng cao dân trí phát triển nhân tài, Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân, hay nói cách khác tạo ra nguồn nhân lực vừa hồng vừa chuyên có phẩm chất đạo đức cách mạng là trung thành tuyệt đối với tổ quốc với nhân dân.
Vì vậy việc không ngừng nâng cao trình độ tri thức và đạo đức nghề nghiệp của nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay là vô cùng quan trọng.
Chương trình lồng ghép giáo dục quyền con người trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Thứ nhất, thiết kế chương trình giảng dạy lồng ghép vào các môn học có nội dung có tính tương đồng và bổ trợ cho nhau như môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Luật Hiến pháp; Giáo dục an ninh quốc phòng; Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước..v…v chuẩn bị đội ngũ giáo viên, học liệu ( sách giáo khoa và tài liệu về quyền con người)
Thứ hai, tăng cường chế độ trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học
Giáo dục lý luận về quyền con người kết hợp với thực hiện quyền con người không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các tiết học, môn học mà cần được nhìn rộng và toàn diện hơn là gắn liền với tăng cường trách nhiệm chính trị, pháp lý của các cơ sở giáo dục. Cơ sở giáo dục công lập ; Cơ sở giáo dục tư thục và Cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài gồm cơ sở giáo dục 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài;.
Một trong những vấn đề quan trọng mà chủ thể có trách nhiệm là các cơ sở giáo dục công lập, tư thục hay có vốn đầu tư nước ngoài cần nhận thức rõ là quyền được giáo dục và các quyền trong giáo dục/quyền trong trường học, như: quyền không bị phân biệt đối xử, tự do và an ninh cá nhân; tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo; tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến và tiếp cận thông tin; tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe; tham gia vào đời sống văn hóa; bình đẳng trước pháp luật, quyền được suy đoán vô tội…Các quyền này đều có cơ sở pháp lý vững chắc trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Nghĩa vụ bảo vệ, thực hiện các quyền này là Chính phủ, Cơ quan chủ quản, và các cơ sở giáo dục, đội ngũ cán bộ, quản lý, các thầy cô giáo. Do vậy, Quyết định số 1309/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (2017) đã công nhận: Mục tiêu chung của giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam là: “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước”. Như vậy, cơ sở giáo dục là nơi trực tiếp hiện thực hóa quyền được học tập, giáo dục quyền con người;
Thứ ba, các nội dung quyền con người nêu ở khoản 1 mục II phần B, Nội dung chương trình giáo dục quyền con người trong các cấp học của hệ thống giáo dục quốc dân (đối với giáo viên, cán bộ quản lý) được tích hợp, lồng ghép vào môn học lý luận chung về nhà nước và pháp luật với thời lượng 8 giờ.
Các nội dung quyền con người nêu ở khoản 2 mục II phần B, Nội dung chương trình giáo dục quyền con người trong các cấp học của hệ thống giáo dục quốc dân (đối với học viên) được thiết kế thành một môn học riêng, hoặc lồng ghép vào các môn học chuyên ngành có liên quan. Trong trường hợp thiết kế thành môn học riêng thời lượng tối thiểu là hai học phần có kiểm tra đánh giá
Ngoài chương trình chính khoá, tất cả các trường chủ động trong việc lựa chọn đưa nội dung về quyền con người vào các hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng học viên thông qua một số hoạt động ngoại khóa sau: Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về quyền con người; và Lồng ghép nội dung về quyền con người vào các hoạt động văn hóa. Về nội dung và phương pháp lồng ghép vào trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu: Lựa chọn chủ đề phù hợp với nhóm mục tiêu. Bên cạnh những đặc điểm chung, mỗi nhóm mục tiêu này đều có nhu cầu đặc trưng về quyền con người cần phải được đáp ứng với từng nghề nghiệp khác nhau như nghề giáo, nghề Y (chăm sóc sức khỏe nhân dân) nghề luật ..v..v. nội dung quyền con người được phản ánh vào trong quá trình lập kế hoạch của các nhà giáo dục sao cho phù hợp với môn học lồng ghép, ví dụ như: Giáo dục chính trị; Pháp luật; Giáo dục công dân; Giáo dục thể chất; Lịch sử; Giáo dục quốc phòng an ninh...; iii) Giới thiệu toàn diện các tiêu chuẩn cụ thể và cách thức bảo vệ, thực hiện, đánh giá về quyền con người được lồng ghép; iv) Bảo đảm sự hiện diện của các thông điệp ngắn gọn dễ hiểu, dễ ghi nhớ đối với người học. v) Coi trọng các cách tiếp cận thực tế, tương tác và linh hoạt trong quá trình lồng ghép. Khuyến nghị chung là, các nhà giáo dục về quyền con người phải đưa những thông tin thực tế vào chương trình giảng dạy,”; bổ sung và tăng thêm giá trị cho các chương trình giáo dục tại các trường đại ở Việt Nam hiện nay.
TS. Đỗ Thị Thơm
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,1996;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021;
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
5. Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 trang web Văn bản Chính phủ;
6. Luật giáo dục đại học 2012 trang web Văn bản Chính phủ;
7 . Tập hợp các văn kiện quốc tế về quyền con người, Viện N.C Quyền con người Hà nội 2003
[1] Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc phát động “Thập kỷ giáo dục nhân quyền,, Từ năm 1995-2004
[2] Xem tập hợp các văn kiện quốc tế về quyền con người, Viện N.C Quyền con người Hà nội 2003
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 85
[4] Wolfgang Benedek (chủ biên) (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, tr.378.