Tiếp cận nguồn nước là một quyền con người. Tại Việt Nam, quyền tiếp cận nguồn nước không chỉ được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý, mà còn là một trong những mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người. Với ý nghĩa và giá trị của quyền tiếp cận nguồn nước, bài viết tập trung làm rõ nội dung, phân tích quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền tiếp cận nguồn nước ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về quyền tiếp cận nguồn nước ở Việt Nam.

1. Đặt vấn đề
Quyền về môi trường (còn gọi là quyền đối với môi trường trong lành hay quyền môi trường ngày càng được ghi nhận với tư cách là một quyền quan trọng trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế1. Sự quan tâm này xuất phát từ tính chất xuyên biên giới của các vấn đề môi trường. “Nước” là một trong những thành phần đặc biệt quan trọng trong hệ sinh thái môi trường, là một trong những yếu tố vật chất của môi trường, đồng thời là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại của con người và sự phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Theo Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đã giải thích ý nghĩa và nội hàm của các quyền ghi nhận tại Điều 11 của Công ước  ICESCR, theo đó: “...quyền của mọi người được có một mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình mình, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, nhà ở, và được không ngừng cải thiện điều kiện sống...”2. Nói cách khác, quyền về môi trường được xem là một quyền cấu thành của quyền được hưởng một mức sống thích đáng, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, ở... và quyền tiếp cận với nguồn nước. Việc bảo đảm quyền được tiếp cận với nguồn nước là điều kiện tiên quyết để đảm bảo nhiều quyền con người khác, trong đó đặc biệt là quyền về sức khỏe, quyền có nhà ở và lương thực thích đáng3. Tại Hội nghị về nước của Liên hợp quốc (năm 1997) đã thống nhất tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, địa vị kinh tế, xã hội, đều có quyền tiếp cận nước uống với số lượng và chất lượng bảo đảm cho các nhu cầu cơ bản của con người. Tuy nhiên tại Hội nghị Cấp cao về môi trường tại Giô-han-ne-xbớc ở Nam Phi thì nước được xếp ở vị trí cao nhất trong số những thứ hạng ưu tiên để phát triển bền vững quốc gia và quốc tế, đó là: nước - năng lượng - sức khỏe - nông nghiệp và đa dạng sinh học4. 
Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực tăng cường và kiện toàn chính sách trong lĩnh vực bảo đảm tài nguyên nước; đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác với các quốc gia láng giềng và trong khu vực khi có chung nguồn tài nguyên nước cũng như tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong việc bảo đảm nguồn tài nguyên nước nhằm bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước, góp phần đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước cho người dân Việt Nam
2.  Tiếp cận nguồn nước là một quyền cơ bản của con người
Quyền tiếp cận nguồn nước được quy định trong hàng loạt các văn kiện quốc tế về quyền con người, đảm bảo tinh thần “Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình”7. Quyền này được ghi nhận tại Điều 5 Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Điều 24 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước Giơ-ne-vơ năm 1949 về bảo vệ dân thường trong chiến tranh và được quy định tại các điều 20, 26, 29 và 46 của Công ước này; các Điều 54, 55 Nghị định thư bổ sung năm 1977; các Điều 5, 14 trong Nghị định thư bổ sung II năm 1977; hoặc trong lời mở đầu chương trình hành động về nước thông qua tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc; Chương trình nghị sự số 21 tại các đoạn 18 và 47; hay tại Báo cáo của hội nghị của Liên Hiệp quốc về môi trường và phát triển; Tuyên bố Dublin về nước và phát triển bền vững, Hội nghị quốc tế về nước và môi trường... Các văn kiện xác định các quốc gia thành viên có nghĩa vụ  thực hiện đầy đủ các quyền này và phải thực hiện các biện pháp thích hợp như chống bệnh tật và nạn suy dinh dưỡng; lồng ghép trong khuôn khổ chăm sóc sức khỏe ban đầu nhưng có tính đến nguy cơ ô nhiễm môi trường thông qua việc áp dụng các công nghệ sẵn có và cung cấp thức ăn đầy đủ, đảm bảo dinh dưỡng và nước uống sạch. 
Quyền tiếp cận nguồn nước bảo đảm mọi người có thể tiếp cận với nguồn cung cấp nước một cách đầy đủ, an toàn, có thể chấp nhận và chi trả được cho cuộc sống của cá nhân và hộ gia đình8. Đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước tức là con người có quyền được tiếp cận nguồn nước đảm bảo vệ sinh mà họ có khả năng chi trả được và nguồn nước đó phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân. Theo đó quyền tiếp cận nguồn nước được thể hiện ở ba yếu tố sau: khả năng tiếp cận được; chất lượng nước phù hợp và số lượng tương đối đầy đủ. Cả ba yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau và cần phải được nhận thức một cách rõ ràng, chính xác. Khả năng tiếp cận được tức là đảm bảo mọi người sẽ có khả năng thụ hưởng quyền này đảm bảo giá cả phải chăng và được quy định trong pháp luật; chất lượng phù hợp nghĩa là nguồn nước đó phải sẵn có và mọi người có thể sử dụng được; số lượng đầy đủ nghĩa là nguồn nước đó phải được cung cấp đủ cho mọi người để sử dụng cho các mục đích sinh hoạt và các mục đích khác. Tuy nhiên trong Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc ghi nhận việc cung cấp nước không chỉ đơn giản là về chất lượng mà còn bao hàm cả số lượng và tính có thể tiếp cận được.
Cũng theo các văn kiện trên, quyền về nước có mối liên hệ mật thiết với quyền được hưởng các tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe, thể chất và tâm thần; quyền có nơi cư trú thích đáng và quyền có lương thực thích đáng. Khẳng định điều đó là nhờ vai trò của nước trong việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người như sinh tồn, sản xuất hay chế biến... Theo đó quyền về nước bao gồm các yếu tố của quyền tự do và quyền thụ hưởng. Quyền tự do về nước bao gồm quyền tự do tiếp cận các nguồn nước hiện có mà không bị cản trở bởi một bên thứ ba bao gồm việc ngăn cản tiếp cận nguồn nước hay làm ô nhiễm nguồn nước. Còn quyền thụ hưởng về nước bao gồm quyền đối với một hệ thống cấp nước và quản lý nước sao cho mọi người có thể thụ hưởng quyền về nước một cách bình đẳng.
Các quyền trên được tiếp cận theo Điều 11 và khoản 1, khoản 12 của Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Theo đó các yếu tố của quyền tiếp cận nước phải phù hợp với nhân phẩm, cuộc sống và sức khỏe con người. Do đó, quyền tiếp cận nước không nên hiểu theo nghĩa hẹp, tức là chỉ đề cập đến việc được cung cấp đầy đủ về số lượng thể tích và kỹ thuật mà ngược lại quyền này hàm ý là nước phải được coi như là một dạng hàng hóa xã hội và văn hóa chứ không đơn thuần là một loại hàng hóa kinh tế. Cách thức hưởng thụ quyền tiếp cận với nước cũng phải mang tính bền vững nhằm bảo đảm có thể dành nguồn nước cho các thế hệ tương lai. 
Để đảm bảo quyền được tiếp cận nguồn nước, Ủy ban giám sát Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khẳng định rằng khả năng cung cấp nước cho người dân ở mỗi quốc gia là khác nhau và nó phụ thuộc vào điều kiện của chính quốc gia đó, tuy nhiên cần đảm bảo những tiêu chuẩn tối thiểu sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính sẵn có. Việc cung cấp nước cho người dân phải liên tục và đủ cho nhu cầu sử dụng của cá nhân và mỗi gia đình. Những nhu cầu này, trước hết bao gồm nước uống, nước dùng để vệ sinh cá nhân, giặt quần áo, nấu ăn, và vệ sinh cho gia đình. Lượng nước cung cấp cho mỗi người phải phù hợp với các hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Thứ hai, bảo đảm chất lượng nước. Nước dùng cho mỗi cá nhân và gia đình phải an toàn, không chứa các vi chất, hợp chất hóa học nguy hiểm đến sức khỏe con người về sinh hóa hay chất phóng xạ. Hơn nữa, nước dùng cho cá nhân và gia đình phải có màu, mùi, vị chấp nhận được. 
Thứ ba, bảo đảm nguồn nước có thể tiếp cận. Mọi người, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, theo pháp luật của quốc gia thành viên, đều có thể tiếp cận với nước, các điều kiện và dịch vụ về nước. Tính có thể tiếp cận bao gồm bốn khía cạnh giao nhau như tiếp cận một cách  trực tiếp, tiếp cận được về mặt kinh tế, tiếp cận không phân biệt đối tượng và quyền được tiếp cận thông tin.
Theo đó, tiếp cận trực tiếp là nguồn nước và các điều kiện, dịch vụ về nước phải bảo đảm tính an toàn cho mọi nhóm dân cư. Nước đầy đủ, an toàn và chấp nhận được phải được đưa đến từng hộ gia đình, trường học, công sở và các cơ sở khác. Tất cả các phương tiện và dịch vụ về nước phải đủ về số lượng, chấp nhận được về văn hoá, và phù hợp với các yêu cầu về giới tính, tuổi tác và sự riêng tư. An ninh cơ học không nên bị đe doạ trong quá trình tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ về nước. Tiếp cận được về kinh tế là việc nước, các điều kiện và dịch vụ về nước cần phải trong khả năng chi trả của mọi người. Các chi phí và giá cả trực tiếp, gián tiếp liên quan đến nước an toàn phải ở mức chi trả được và không được làm tổn hại hay đe doạ đến việc hưởng thụ các quyền khác được ghi nhận trong Công ước. Bảo đảm quyền tiếp cận nguồn nước còn được thể hiện bằng việc không có sự phân biệt về đối tượng. Nghĩa là tất cả mọi người, bao gồm cả các nhóm dễ tổn thương và cả người dân là thứ yếu trong xã hội không có sự phân biệt dựa trên bất cứ sự phân biệt nào dù là về mặt luật pháp hay thực tế xã hội. Còn tiếp cận thông tin chính là việc tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin liên quan đến các vấn đề về nước9.

Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường. Nguồn: hanoimoi.com.vn.


3. Pháp luật Việt Nam về việc bảo đảm quyền tiếp cận nguồn nước
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước. Mặt khác nước cũng có thể gây ra những thảm họa cho con người và môi trường. Tại Việt Nam, lần đầu tiên các quy định về môi trường được ghi nhận tại Điều 36 Hiến pháp năm 1980, theo đó: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống”10. Tiếp theo, Hiến pháp năm 1992 một lần nữa xác định việc bảo vệ môi trường là nghĩa vụ pháp lý của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường (Điều 29 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001). Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành thì Luật Tài nguyên nước được Quốc hội thông qua và khẳng định nước là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Tổ chức, cá nhân được quyền khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho đời sống và sản xuất, đồng thời có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Quyền tiếp cận nguồn nước một lần nữa được khẳng định và cụ thể hoá trong Luật Tài nguyên nước năm 2012. Tại khoản 5 Điều 3 Luật này quy định: “Khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải tiết kiệm, an toàn, có hiệu quả; bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, công bằng, hợp lý, hài hòa lợi ích, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức, cá nhân”11. Việc đảm bảo quyền khai thác, tiếp cận nguồn nước là một trong những chính sách quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên nước nói riêng và bảo đảm quyền con người nói chung. 
Khoản 3 Điều 4 Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định về chính sách của nhà nước đối với tài nguyên nước nói chung. Theo đó, nhà nước ưu tiên đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước, có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư khai thác nước để giải quyết nước sinh hoạt, sản xuất cho nhân dân ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng khan hiếm nước ngọt sao cho đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng về quyền lợi giữa cá nhân và tổ chức trrong việc khai thác, sử dụng nguồn nước. Ngoài ra nhà nước còn ưu tiên đầu tư để những vùng khó khăn đều có thể tiếp cận được nguồn nước, từ đó phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. 
Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 201/2013/NĐ - CP ngày 27/11/2013 nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012. Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về thực thi hoạt động khai thác nguồn nước. Hiến pháp năm 2013 ra đời một lần nữa điều chỉnh, bổ sung những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các văn kiện pháp lý hiện hành về vấn đề môi trường. Theo đó với bản Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận quyền con người đối với môi trường, cụ thể: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (Điều 43)12. Việc ghi nhận quyền này trong hiến pháp nghĩa là nhà nước ghi nhận trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo quyền của dân được sống trong môi trường trong lành, trong đó bao hàm cả quyền được tiếp cận nguồn nước.
Năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường  để thay thế cho Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Luật này ra đời là công cụ pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo, giữ gìn các vấn đề về môi trường, bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền về môi trường, trong đó có quyền được đảm bảo về việc tiếp cận nguồn nước.
Ngày nay, nước không chỉ phục vụ đời sống sinh hoạt cho con người mà nước còn là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất, đặc biệt với quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời như ở Việt Nam. Việc đảm bảo tiếp cận nguồn nước trong hoạt động thuỷ lợi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thuỷ lợi, tại khoản 5 Điều 3 Luật Thuỷ lợi năm 2017 nhấn mạnh: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động thủy lợi; huy động sự tham gia của toàn dân trong hoạt động thủy lợi”13. 
Ngày 24/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1978/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược là đảm bảo người dân nông thôn được quyền tiếp cận sử dụng dịch vụ cấp nước sạch công bằng, thuận lợi, an toàn với chi phí hợp lý; đảm bảo vệ sinh hộ gia đình và khu vực công cộng, vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh; bảo vệ sức khỏe, giảm các bệnh liên quan đến nước và vệ sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội cho người dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, góp phần xây dựng nông thôn mới. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày. 100% hộ gia đình nông thôn, trường học, trạm y tế có nhà tiêu hợp vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn; 100% người dân nông thôn thường xuyên thực hiện vệ sinh cá nhân. Đến năm 2045, phấn đấu 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch và vệ sinh an toàn, bền vững14.
Như vậy, có thể thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định quyền tiếp cận nguồn nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khá đầy đủ ở nhiều văn bản khác nhau. Các quy định này cũng thể hiện Việt Nam đã thực hiện trách nhiệm đối với nhiều công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên.
4. Thực tiễn thực hiện quyền tiếp cận nguồn nước ở Việt Nam và một số đề xuất, kiến nghị nhằm đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước
Trong quá trình mở cửa, hội nhập, Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo quyền con người; tích cực, chủ động hoàn thiện pháp luật, xây dựng đồng bộ các chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm tạo sự phát triển bền vững, trong đó luôn nhấn mạnh mục tiêu đảm bảo môi trường sống cho mọi người. Việt Nam cũng nhận được sự giúp đỡ hiệu quả của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con người và môi trường. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong bảo vệ môi trườngđược xem như công cụ tiến bộ đang ngày càng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. 
Sự trợ giúp về nguồn lực và kinh nghiệm quốc tế nói trên giúp nâng cao nhận thức của xã hội, năng lực của các cấp. Trên thực tế, nhiều vấn đề về môi trường và phát triển, môi trường và quyền đảm bảo sức khoẻ của mọi người dân đã được thực hiện thành công ở Việt Nam, đặc biệt là quyền tiếp cận nguồn nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, cả trong pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng. 
Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng được khung pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tài nguyên nước. Tuy nhiên, nội dung pháp luật về tài nguyên nước chủ yếu hướng đến việc quản lý tài nguyên nước còn những nội dung về đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước của cá nhân và tổ chức còn hạn chế. Bởi lẽ, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, tài nguyên nước là “tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (Điều 53)15. 
Thứ hai, hiệu quả thực thi các phương thức đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước chưa cao. Nhiều dự án về nguồn nước tại Việt Nam được thực hiện và triển khai nhưng chưa đồng bộ, vẫn còn có sự phân hoá giữa nông thôn và đô thị. Đặc biệt việc tiếp cận nước sạch vẫn còn đang là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, hiện mỗi năm có khoảng 9.000 người tử vong do nguồn nước và vệ sinh kém, gần 250 ngàn người nhập viện vì bị tiêu chảy cấp bởi nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, khoảng 200.000 người mắc bệnh ung thư mỗi năm mà một trong những nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước. Theo một nghiên cứu của WHO về tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam đã đưa ra cảnh báo, hiện có khoảng 44% trẻ em bị nhiễm giun và 27% trẻ em dưới 05 tuổi bị suy dinh dưỡng mà nguyên nhân chính là do thiếu nước sạch và kém về vệ sinh. Bên cạnh đó, có khoảng 21% dân số đang sử dụng nguồn nước bị nhiễm Asen16.
Thứ ba, vai trò của cộng đồng trong việc đảm bảo quyền tham gia của người dân trong việc tiếp cận nguồn nước chưa được huy động đầy đủ. Theo phương pháp quyền tiếp cận thông tin về môi trường, cần có sự tham gia của cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của cộng đồng còn quá yếu, rất hình thức và thường không được đánh giá đúng mức, như sự cố tại Công ty Cổ phần Đầu tư nước sạch sông Đà là một bài học cảnh tỉnh về vấn đề bảo đảm an ninh trong việc cấp nước sinh hoạt cho mọi người dân, cũng như trách nhiệm của các đơn vị liên quan trong việc kiểm soát và giám sát hoạt động cung cấp nước cho người dân17.
Thứ tư, nhận thức của người dân còn hạn chế về quyền tiếp cận nguồn nước của mình. Kể cả những nơi đã có hệ thống cung cấp nước sạch, nhưng mức tiêu thụ nước sạch đạt thấp do nhận thức chưa đầy đủ, bà con vẫn còn kết hợp sử dụng nhiều nguồn nước với đa phần giữ thói quen sử dụng nước giếng, nước khe suối, nước mưa trong sinh hoạt để tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, ở một số địa phương có dự án cấp nước sạch do doanh nghiệp đầu tư, người dân phải chi trả phí đấu nối với số tiền lớn, nên nhiều hộ gia đình không mặn mà với sử dụng nước sạch. Cụ thể,  trên địa bàn nông thôn tỉnh Quảng Bình, đã có 113 hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung với tổng công suất thiết kế 42.743 m3/ngày đêm. Tuy nhiên, hầu hết các công trình được đầu tư vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của người dân, tỷ lệ người dân khu vực nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn vẫn đang rất thấp (đạt 32%, năm 2020), các công trình phần lớn có công nghệ xử lý đơn giản, chất lượng nước đầu ra chưa bảo đảm theo QCVN 02:2009/BYT18.
Để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhằm đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước tại Việt Nam, một số kiến nghị cần phải được quan tâm thực hiện như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên nước, dựa trên hướng tiếp cận về quyền con người. Mặt khác, rà soát, đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống, chính sách pháp luật trong công tác quản lý môi trường, từ đó đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền tiếp cận nguồn nước, tiếp cận thông tin. Qua đó nâng cao ý thức của người dân đối với tài nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước sạch.
Thứ hai, tăng cường và nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về tài nguyên nước; nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý và thực thi pháp luật của các cán bộ liên quan đến hoạt động đảm bảo tài nguyên nước nhằm tăng cường công tác tổ chức, thực hiện pháp luật về môi trường nói chung, công tác đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước nói riêng trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, tăng cường các hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường; đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên việc thực thi, chấp hành pháp luật của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động tiếp cận tài nguyên nước và đảm bảo việc tiếp cận nguồn nước.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động thông tin, cung cấp thông tin, công khai thông tin và báo cáo về các vấn đề môi trường, trong đó có môi trường nước và tiếp cận nguồn nước của người dân. Từ đó làm căn cứ, cơ sở để phân bổ nguồn nước phù hợp trong quá trình khai thác, sử dụng nước vào các mục đích khác nhau. 
Thứ năm, tăng cường đầu tư tài chính, xây dựng nguồn lực đủ mạnh cho việc bảo vệ nguồn nước sạch; tạo cơ hội cho 100% người dân được sử dụng nước sạch.
Thứ sáu, nâng cao nhận thức của cộng đồng và đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ nguồn nước và thực thi quy định pháp luật về quyền tiếp cận nguồn nước – quyền cơ bản của con người.
Thứ bảy, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước, tranh thủ các nguồn lực phục vụ cho việc đảm bảo tốt hơn các quyền con người. Hiện Việt Nam cũng đã tham gia 15 công ước quốc tế về môi trường, tuy nhiên cần nghiên cứu xem xét tham gia kí kết một số các công ước khác về môi trường như Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biến đổi chất thải và các chất khác; Công ước về sử dụng sông ngòi quốc tế không phải giao thông thủy...
5. Kết luận
Nước được xác định là một nguồn tài nguyên quan trọng đối với sự tồn tại của con người và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Hiện Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tài nguyên nước mặt, nước ngầm khá phong phú. Tuy nhiên do tình trạng sử dụng nước kém hiệu quả, còn lãng phí; các mô hình khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phát triển kinh tế chưa bền vững; ý thức về bảo vệ môi trường, nhận thức về quyền môi trường của một số cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, người dân còn chưa đầy đủ; các quyền về môi trường chưa được bảo đảm một cách thực sự hiệu quả trên thực tế. Điều này là do nhiều nguyên nhân, trong đó cơ bản là do khung pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường, quyền về môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập đòi hỏi cần phải được tiếp tục hoàn thiện, chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp. Bởi vậy việc đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước, đặc biệt là nguồn nước sạch đang là vấn đề đặt ra trong bối cảnh an ninh nguồn nước đang bị tác động như hiện nay. Quyền về môi trường, quyền tiếp cận nguồn nước và bảo đảm quyền được tiếp cận nguồn nước được coi là quyền cơ bản của con người, bởi vậy cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm và chú trọng. Có như vậy mới góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước - giải pháp phát triển bền vững trong bối cảnh kinh tế số hiện nay.

Bùi Hồng Ngọc

Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 2/2023

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Nguyễn Thị Quế Anh (đồng tác giả) (2019), Quyền về môi trường, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr.15.
(2) Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966. 
(4) Nguyễn Thị Quế Anh (đồng tác giả) (2019), Quyền về môi trường, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr.90.
(4) Trung Tuyến (2015), Tiếp cận nguồn nước là quyền cơ bản của con người”, nguồn: http://dwrm.gov.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=Hop-tac-quoc-te/Tiep-can-nguon-nuoc-la-quyen-co-ban-cua-con-nguoi-4132, truy cập 17/2/2023
(5) Nguyễn Hồng Thao (2021) “Bảo đảm an ninh nguồn nước ở Việt Nam”, nguồn: http://iwe.vn/p1c3/p2c9/n636/bao-dam-an-ninh-nguon-nuoc-o-viet-nam/, truy cập 17/2/2023
(6);(8);(9) Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), Bình luận và khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con người, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
(7) Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948.
(10) Quốc hội (1980) Hiến pháp ban hành ngày 8/12/1980.
(11) Quốc hội (2012), Luật Tài nguyên nước ban hành ngày 21/06/2012.
(12) Quốc hội (2013) Hiến pháp ban hành ngày 28/11/ 2013. 
(13) Quốc hội (2017), Luật Thuỷ lợi ban hành ngày 19/06/2017.
(14) Chính phủ (2021), Quyết định số 1978/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ngày 24/11/2021.
(15) Quốc hội (2013) Hiến pháp ban hành ngày 28/11/2013. 
(16) Cục Quản lý tài nguyên nước (2020) “Tiếp tục báo động an ninh nước sạch”, nguồn: http://dwrm.gov.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=Hoat-dong-cua-dia-phuong/Tiep-tuc-bao-dong-an-ninh-nuoc-sach-9344, ngày truy cập 17/2/2023.
(17) Xem thêm: “Từ vụ nước sạch sông Đà: Quá nhiều lỗ hổng an ninh nguồn nước”, nguồn: https://tuoitre.vn/tu-vu-nuoc-sach-song-da-qua-nhieu-lo-hong-an-ninh-nguon-nuoc-20191021075753749.htm, ngày truy cập 17/2/2023.
(18) Thanh Hoa (2020), “Nâng cao tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt chuẩn: Vẫn còn lắm khó khăn”, nguồn:  https://baoquangbinh.vn/xa-hoi/202006/nang-cao-ty-le-ho-dan-su-dung-nuoc-sach-dat-chuan-van-con-lam-kho-khan-2178723/, ngày truy cập 17/2/2023.