Pháp quyền nhân quyền là vấn đề mới của triết học pháp luật nói chung, pháp luật nhân đạo hay triết học quyền con người nói riêng. Bài viết này bước đầu bàn về những nội dung cơ bản của pháp quyền nhân quyền với tư cách là cách đặt vấn đề và chủ đề mới của triết học pháp luật nói chung, triết học quyền con người nói riêng để tiếp tục nghiên cứu.

1. Quan niệm về pháp quyền nhân quyền

Hiện nay, xét theo nhiều chỉ số, trước hết, theo những vấn đề của triết học pháp luật, đã tích lũy được một lượng dữ liệu rất phong phú về các vấn đề của triết học pháp luật, cho phép tóm tắt sự phát triển của triết học pháp luật và mô tả nó dưới dạng và hình thức đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện nay của nền văn minh nhân loại. Trong các dữ liệu đó có dữ liệu nói về pháp quyền nhân quyền.

Kể từ Thời đại Khai sáng, tư tưởng triết học về các vấn đề pháp luật được phát triển và ngày càng được luận giải sâu sắc hơn, sự vận động thống nhất của nó luôn hướng về phía khẳng định rằng, nền tảng của pháp luật, cốt lõi và mục tiêu của nó là tự do. Và không chỉ tự do, không phải tự do nói chung, không phải là một tư tưởng trừu tượng về tự do, mà trong cơ thể pháp lý sống động, là tự do thực sự của một cá nhân, của một người tự chủ.

Điều nổi bật nhất ở đây là với bản chất và định hướng tư tưởng triết học như vậy, sự phát triển thực sự của hiện thực chính trị - pháp lý ở các quốc gia, chủ yếu là Châu Âu và Bắc Mỹ, đã trùng hợp với nhau về kết quả cuối cùng, trong quá trình và kết quả của việc tổ chức lại xã hội theo hướng dân chủ, từng bước thử và sai, các thể chế dân chủ được khẳng định và củng cố. Và ở đây, ngay trong đời sống thực tiễn của con người, bắt đầu từ Thời kỳ Khai sáng, những tuyên ngôn và hiến pháp dân chủ đầu tiên, sự phát triển đã diễn ra đều đặn và hiện đang tiến triển từ những công thức chung về tự do, bình đẳng và tình huynh đệ đến những tư tưởng về pháp quyền nhân quyền, đến sự ưu tiên trong hiện thực chính trị - pháp lý các quyền và tự do bất khả xâm phạm của con người.

Như lịch sử phát triển pháp luật thế giới cho thấy, một trong những mô hình biểu cảm nhất về sự kết hợp giữa tư tưởng triết học và hiện thực pháp luật là sự phát triển pháp luật dân sự trong thế kỷ XIX-XX. Suy đến cùng, hệ thống tư bản chủ nghĩa trong đời sống kinh tế yêu cầu phải có tự do, nghe có vẻ kỳ lạ, theo định nghĩa nghiêm ngặt của Kant. Đó là, không gian như vậy trong hành vi tự do của những người tham gia quan hệ kinh tế, trong đó diễn ra “sự đối kháng hoàn toàn” là cạnh tranh, thi đua kinh tế, các nguyên tắc tranh đua (đây là thị trường) và do đó, đòi hỏi phải có “định nghĩa chính xác nhất và bảo tồn ranh giới của tự do” (Kant), “trò chơi tự do” (Schelling), đó chính xác là những gì mà các đạo luật dân sự khéo léo và phát triển tốt mang lại1.

Chính sự kết hợp giữa tư tưởng triết học tiến bộ về bản chất tồn tại của con người và sự phát triển thực sự của hiện thực chính trị - pháp lý trong hai thế kỷ qua đã cung cấp cơ sở đáng tin cậy cho kết luận rằng, tổng hợp các tư tưởng (quan niệm) triết học pháp luật về pháp luật trong đời sống con người, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển của văn minh nhân loại hiện nay, cần có một triết học nhân đạo - triết học pháp quyền nhân quyền.

Từ cách đặt vấn đề như vậy, có hai khái niệm trong các luận điểm được đưa ra cần có sự giải thích một cách khái quát.

Sự giải thích thứ nhất liên quan đến nhân đạo. Định nghĩa “nhân đạo” trong quan hệ với pháp luật trong ngữ cảnh này, không hề tầm thường, được sử dụng một cách rộng rãi cùng với các khái niệm như “dân chủ”, “tiến bộ” và các khái niệm tương tự. Nhân đạo được sử dụng theo nghĩa chính xác, nguyên gốc của nó với ý nghĩa mô tả các hiện tượng đặc trưng trong đời sống xã hội, tập trung xung quanh con người, các giá trị và lợi ích của con người, tức là trong ý nghĩa một cách nghiêm túc, sâu sắc lấy con người làm trung tâm.

Sự giải thích thứ hai liên quan đến cách giải thích khác, cùng với khái niệm pháp quyền, khái niệm nhân quyền (quyền con người) được sử dụng. Ở đây bản chất của vấn đề thể hiện ở chỗ, hiện thực pháp luật, tính hiệu quả của nó được làm sáng tỏ thông qua pháp quyền: khẳng định quyền lực của pháp luật, giá trị, vai trò, sứ mệnh của pháp luật, việc thực hiện nghiêm túc, thường xuyên pháp luật pháp quyền hiện hành trong đời sống. Do vậy, thuật ngữ “pháp chế” vẫn nói lên rất ít, chưa bao quát hết những gì pháp luật pháp quyền vốn có trong đời sống. Bản thân nó chỉ đặc trưng cho một trong những đặc tính nội tại của bất kỳ pháp luật nào, tính bắt buộc chung của nó, tính nhất khoát, tính liên tục của việc tuân thủ nghiêm túc, thường xuyên, thực hiện các quy phạm pháp luật hiện hành, bất kể thế nào, kể cả “các quy định mang tính cách mạng”, “hợp lý” và phản động nhất.

Điều gì thay đổi khi từ “pháp quyền nhân quyền” được thêm vào thuật ngữ “pháp luật”? Ý nghĩa của cách gọi theo thuật ngữ này thay đổi đáng kể ngay khi các nền tảng cơ bản của pháp luật nhân đạo - các quyền cơ bản không thể bị tước đoạt của con người được công nhận và được thực hiện trên thực tế. Trong trường hợp này, pháp quyền nhân quyền có nghĩa là sự thực hiện nghiêm chỉnh, thường xuyên trong đời sống không phải bất kỳ và tất cả các quy phạm nào, mà là những nguyên tắc của pháp luật nhân đạo, trước hết là các quyền không thể tước đoạt của con người, và ngoài ra, cả các thể chế khác có liên quan đến chúng, trong đó có các nguyên tắc pháp quyền dân chủ chung, pháp luật tư, tư pháp độc lập. Và do đó, việc xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật, toàn bộ đời sống chính trị - nhà nước dựa vào các quyền không thể tước đoạt của con người, theo nguyên tắc dân chủ, nhân đạo nhất quán là hiện thực thực tế, là pháp quyền nhân quyền hiện thực.

Hơn nữa, cần phải hiểu rằng, bản thân pháp chế có thể có hai loại: “pháp chế có thể chân chính, phù hợp với “tinh thần”, tức là bản chất của pháp luật, và pháp chế chỉ mang tính hình thức thuần tuý, được quy về việc tuân thủ mọi quy phạm nếu chúng được nhà nước phê chuẩn. Đối với loại pháp chế thứ nhất, cần phải có các điều kiện tiên quyết về xã hội, chính trị và tư tưởng nhất định, văn hóa pháp luật và sự tôn trọng pháp luật, ý thức về sự cần thiết và công bằng của nó, tức là, sự công nhận nhân quyền. Còn đối với loại pháp chế thứ hai, tất cả điều này suy đến cùng là không bắt buộc và thậm chí không cần thiết”2.

Cần phải lưu ý rằng, ở đây chúng ta đang nói về triết học, về các quan niệm, về các tư tưởng và ở một mức độ lớn hơn là về các lý tưởng. Quan niệm về pháp quyền nhân quyền (pháp luật nhân đạo hiện đại) được hiểu trong trường hợp này không phải là một thực tế có thực dưới mọi phương diện của nó, không phải là một hệ thống pháp luật cụ thể đang có hiệu lực của một quốc gia (thậm chí là hệ thống pháp luật phát triển nhất về các khía cạnh dân chủ và pháp luật), mà là một lý tưởng, hình mẫu, hình ảnh lý luận được biết đến.

Một số hệ thống quốc gia đã tiến khá gần đến lý tưởng này. Trong pháp luật quốc gia của các nước dân chủ phát triển, như Anh, Pháp, Mỹ, Na Uy, Hà Lan, Thụy Sĩ và một số nước khác, nhiều yếu tố, nếu không muốn nói là hầu hết, của pháp luật nhân đạo hiện đại đã hiện diện, những yếu tố tương đồng khác đang được hình thành. Điều cơ bản là tất cả những yếu tố này, cả đang hiện diện và đang được hình dung như một lý tưởng, một sự khái quát nào đó, đều phù hợp với logic phát triển xã hội, đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn phát triển văn minh hiện nay và trong tổng thể, có lẽ, chúng phác thảo ra “pháp quyền nhân quyền”, hay “pháp luật của xã hội pháp quyền hiện đại”3, một giai đoạn phát triển pháp luật mới, cao nhất, ngay sau trình độ của nhiều quốc gia hiện nay, trong đó có nhiều quốc gia dân chủ, đứng đằng sau “luật pháp của nhà nước”.

Như vậy, quan niệm về pháp luật đáp ứng yêu cầu của xã hội pháp quyền hiện đại chính là triết học về pháp quyền nhân quyền - pháp luật nhân đạo, pháp luật lấy con người, quyền con người làm giá trị cốt lõi trung tâm, mục tiêu cao cả nhất phải thống trị, cai trị trong xã hội. Pháp luật như vậy chính là pháp quyền nhân quyền.

2. Công thức về pháp quyền nhân quyền

Bởi vì pháp quyền nhân quyền có thể trở thành đặc điểm cuối cùng của triết học pháp luật nhân đạo, biểu tượng của nó, bởi vì, về bản chất, dưới dạng cô đọng, vị trí như vậy chứa đựng tất cả các đặc điểm cơ bản của nó, sẽ được nói đến trong mục này.

Đồng thời, muốn lưu ý đến thực tế là với tất cả các tải trọng ý nghĩa và sắc thái mới của công thức đang được xem xét, nó vẫn là một luận điểm về pháp quyền. Và pháp quyền, với tất cả những biến thể lịch sử đã xảy ra cùng với nó vẫn chính xác là pháp quyền, trật tự, hệ thống hoặc chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật thực định hiện hành được thể hiện trong các đạo luật và các nguồn pháp luật khác. Và vì trong xã hội pháp quyền hiện đại, trật tự pháp luật, hay nói cách khác, chế độ pháp quyền, có nhiệm vụ thể hiện pháp quyền, dựa trên pháp luật nhân đạo, và do đó, chủ yếu dựa trên các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người, nên chính cấu trúc của quan hệ pháp luật cần phải có một loại phẩm chất tự nhiên, nghĩa là trở nên cần thiết và cứng rắn như bản thân thiên nhiên.

Các quan điểm của nhà luật học và nhà triết học trùng hợp nhau trong quan hệ này.

Nhà luật học nổi tiếng người Nga N.M. Korkunov cho rằng, một hệ thống xã hội vững mạnh yêu cầu phải thiết lập một trật tự pháp luật như vậy “sẽ khuất phục nguyện vọng của những cá nhân cụ thể với tính vô điều kiện và khắc nghiệt, như các quy luật tự nhiên”4.

Với sự thấu đáo, thậm chí mang tính triết học sâu sắc hơn, Schelling đã phát triển các nhận định của mình về vấn đề đang được xem xét khi ông đưa ra tư tưởng đã đề cập đến chế độ pháp quyền như “bản chất thứ hai” của pháp luật.

Schelling trước hết nhấn mạnh rằng, “tự do phải được bảo đảm bằng một trật tự rõ ràng và không thể thay đổi như các quy luật tự nhiên”5. Tư tưởng của tác giả cũng được xây dựng theo cùng một mạch khi ông viết: “...những gì dùng để bảo đảm và bảo vệ quyền không nên phụ thuộc vào một trường hợp”6. Và vì vậy, theo Schelling, trật tự bảo đảm tự do phải là bản chất thứ hai và bản chất cao hơn, trong đó đạo luật pháp quyền ngự trị. Schelling viết: “Có thể nói, bên trên bản chất thứ nhất phải có một bản chất thứ hai và cao hơn, trong đó quy luật tự nhiên chiếm ưu thế, nhưng hoàn toàn khác với quy luật trong tự nhiên hữu hình, tức là quy luật cần thiết cho tự do,”7 và như vậy một bản chất, một “sự cần thiết cứng rắn” “đứng trên” con người và “chính nó chỉ đạo cuộc chơi tự do của con người”8.

Cân nhắc những điều trên, cần phải nói rằng, các cuộc thảo luận chung về pháp luật theo ý nghĩa cao nhất (nhân đạo) của nó sẽ chẳng có giá trị gì nếu tư tưởng về pháp luật không được kết nối, không gắn chặt với tư tưởng về pháp quyền - chế độ pháp quyền hoạt động chắc chắn, không lay chuyển, rõ ràng và không thể thay đổi, như một quy luật tự nhiên. Đó là pháp quyền nhân quyền.

Bây giờ chúng ta bàn về những luận điểm cơ bản hình thành nên triết học pháp luật nhân đạo - các mắt xích và những dấu hiệu của tư tưởng về pháp quyền nhân quyền.

3. Pháp luật của con người và các nguyên tắc pháp quyền dân chủ

Pháp luật của con người, trong quan hệ của nó có thể ghi nhận những dấu hiệu pháp lý quan trọng hiện nay (tất nhiên không phải ở đâu cũng được phát triển đầy đủ), đặc trưng cho pháp quyền nhân quyền, đối với pháp luật nhân đạo hiện đại ở phẩm chất được ghi nhận, tức là pháp luật của con người.

Trong số các dấu hiệu này, dấu hiệu đã được nhấn mạnh ở trên đáng được quan tâm đặc biệt, đó là việc tiếp nhận các quyền bất khả xâm phạm của con người có ý nghĩa pháp lý trực tiếp được công nhận rộng rãi cả dưới hình thức hiện thực pháp luật lẫn dưới hình thức các tư tưởng tương ứng như là mắt xích trung tâm của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia.

Sự khác biệt giữa pháp luật nhân đạo hiện đại không chỉ ở chỗ, các quyền bất khả xâm phạm của con người có hiệu lực pháp lý trực tiếp và là nền tảng của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia, mà còn ở chỗ chúng có nhiệm vụ xác định nội dung, ý nghĩa và phương hướng hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ quan bảo vệ pháp luật về tất cả các vấn đề mà bằng cách này hay cách khác liên quan đến các quyền của con người.

Hơn nữa, vì các quyền bất khả xâm phạm của con người có tầm quan trọng cơ bản, tối thượng nên bản thân quyền lực nhà nước phải được xây dựng phù hợp với địa vị của các quyền đó. Trong mọi trường hợp, quyền lực phải ở mức vừa phải, không chứa đựng những tiềm năng khiến nó trở nên “Lớn” - thống trị pháp luật hoặc chà đạp pháp luật9.

Và còn một yếu tố. Trong những bộ phận của hệ thống pháp luật ở đó các nguyên tắc quyền lực và nguyên tắc phụ thuộc đóng vai trò quyết định (luật hình sự, luật hành chính, luật thuế và hải quan, v.v..), tuy nhiên, các quyền cơ bản của con người vẫn có nhiệm vụ tạo ra một nền tảng chung cho điều chỉnh pháp luật, làm tiêu chí xác định ranh giới giữa quyền và nghĩa vụ, là yếu tố quan trọng hàng đầu khi đánh giá chứng cứ, xác định hình phạt cụ thể, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm pháp lý, giải quyết các vấn đề quan trọng khác về mặt pháp lý.

Tư tưởng về pháp luật của con người, thể hiện trong việc có được hành động pháp lý trực tiếp bằng các quyền con người, đã làm nảy sinh một khía cạnh khác của quan niệm nhân đạo, theo đó, được ghi trong các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, chủ yếu trong Hiến pháp, trong các văn bản được pháp điển hóa của các ngành pháp luật cơ bản, các nguyên tắc pháp quyền dân chủ, chẳng hạn như suy đoán vô tội, nguyên tắc tố tụng tranh tụng, v.v.., cũng có thể có được một giá trị pháp lý “làm việc”, cho phép các cơ quan tư pháp đưa ra các quyết định pháp lý, cho dù có những lỗ hổng và thiếu sót trong pháp luật.

Mức độ quan trọng của cách nhìn như vậy về các hiện tượng pháp lý có thể được đánh giá bởi thực tế là cho đến gần đây khoa học pháp lý vẫn gán cho các nguyên tắc của pháp luật các hiện tượng trí tuệ, những khái quát hóa không có ý nghĩa pháp lý trực tiếp. Và theo tất cả các dữ liệu, sự chuyển đổi quan điểm về vấn đề này phần lớn được quyết định bởi nhu cầu bảo vệ nhất quán các quyền bất khả xâm phạm của con người.

Hơn nữa, thực tiễn của các quốc gia có nền văn hóa pháp luật phát triển lấy con người làm trung tâm cho thấy rằng, trong một số trường hợp, không chỉ những nguyên tắc được ghi nhận trong các văn bản pháp luật có hiệu lực cao mới được công nhận về mặt pháp lý. Như I.A. Ledyakh chỉ rõ, Hội đồng Hiến pháp Pháp “đã mở rộng đáng kể không gian hiến pháp để bảo vệ nhân quyền và tự do”; nó, không gian này, “bao gồm cái gọi là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật,” và những nguyên tắc này “có tầm quan trọng tương đương với bản thân hiến pháp và được giải thích cùng với nội dung của nó; thông thường chúng bắt nguồn từ các điều khoản hiến pháp riêng lẻ hoặc từ một bộ luật hữu cơ, hoặc từ một bộ tuyển tập pháp luật hiện hành, bao gồm cả các bộ luật”10.

4. Pháp quyền nhân quyền và pháp luật tư, tự do được thể chế hoá và không được thể chế hoá

Một yếu tố cơ bản của quan niệm về pháp luật nhân đạo là pháp luật tư phát triển, có được vị trí như vậy trong hệ thống pháp luật, trong đó nó trở thành một phần cần thiết, quan trọng nhất và bất khả xâm phạm của pháp luật dân chủ và các nguyên tắc của nó (quyền bất khả xâm phạm về tài sản, sự bình đẳng giữa các chủ thể, không can thiệp của nhà nước vào các vụ việc riêng tư, v.v..) là cơ sở pháp lý trực tiếp cho hoạt động và quyết định tư pháp có ý nghĩa pháp lý.

Tuy nhiên, từ vấn đề này có thể “rút ra” một vấn đề có tính chất tổng quát hơn, trong ngữ cảnh đề xuất một công thức mới về vấn đề pháp luật tư có thể được khoa học pháp lý nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.

Bản chất của vấn đề này thể hiện ở chỗ, việc thực hiện sứ mạng cao cả nhất của pháp luật là bảo đảm và điều chỉnh tự do của cá nhân, người có chủ quyền, đòi hỏi phải có, ngoài các yếu tố khác, sự thể chế hoá nhất định về các hành động được thực hiện bởi những người có ý chí tự do của riêng họ. Sự thể chế hoá như vậy, dưới sự thống trị của các chế độ độc tài, có thể không nhằm mục tiêu bảo đảm quyền tự do mà nhằm trấn áp nó, và về mặt này, đạt được mức độ “điều chỉnh cao nhất”. Khi đó, người dân chỉ được trao quyền tự do “theo liều lượng” một cách nghiêm ngặt, hơn nữa dưới hình thức “quyền được phép” đối với sự cho phép mà các cơ quan, quan chức nhà nước trao cho (hoặc không trao cho)11.

Đặc điểm nổi bật quan trọng nhất của triết học pháp luật quyền con người là tính độc lập, tự chủ một người hành động theo trạng thái tự nhiên, bẩm sinh của mình với tư cách là một người tự do, và do đó phải có sự cho phép chung cho mọi người hành động theo ý muốn của mình, theo quyết định riêng của mình ở mọi nơi, trong mọi trường hợp, mà không cần bất kỳ sự cho phép nào, miễn là hành động này không bị đạo luật trực tiếp cấm.

Rõ ràng là có nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội (trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, giao thông đường bộ, sử dụng các chất có hại cho con người, an ninh con người, v.v..), trong đó các nguyên tắc cho phép có ý nghĩa cơ bản đối với con người cụ thể. Nhưng đây vẫn là những lĩnh vực được lựa chọn, trong đó lợi ích xã hội đóng vai trò quan trọng như nhau, không làm thay đổi bản chất của nguyên tắc cho phép chung, có tầm quan trọng ưu tiên đối với từng cá nhân, từng con người.

Điều quan trọng là nguyên tắc cho phép chung này đối với công dân đã được tuyên bố một cách long trọng trong văn kiện đầu tiên của Cách mạng Pháp - trong Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền. Trong điều 5 của Tuyên ngôn nói: “Pháp luật chỉ cấm những hành vi có hại cho xã hội, nhưng những gì pháp luật không cấm đều được phép...”.

Nguyên tắc cho phép chung được chấp nhận trong hành vi của công dân, các hiệp hội, nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức pháp quyền nhân quyền, bản chất của quan niệm pháp luật nhân đạo, hơn là hiệu lực pháp lý trực tiếp và ưu tiên của các quyền của con người, ý nghĩa pháp lý của các nguyên tắc pháp quyền dân chủ cơ bản. Nguyên tắc cho phép chung này không phải là một công thức trừu tượng nào đó trong số những vấn đề pháp lý phức tạp, mà là một loại “đạo luật của các đạo luật”, theo đó trong mối quan hệ với công dân và các hiệp hội của họ, trạng thái tự do phải được công nhận là có ý nghĩa về mặt pháp lý, và do đó, trong mối quan hệ đối với mọi công dân, cần phải công nhận hành động ban đầu là suy đoán về tính hợp pháp của hành vi. Điều này có nghĩa là bất kỳ hành động nào, bất kỳ hành vi ứng xử nào của bất kỳ công dân hoặc hiệp hội nào của họ đều được coi là hợp pháp cho đến khi sự không phù hợp của hành vi này với pháp luật được xác lập theo thủ tục thích hợp, nghĩa là cho đến khi sự kiện vi phạm được xác lập liên quan đến con người này.

Ở một mức độ nào đó, loại yêu cầu này được bao hàm bởi nguyên tắc suy đoán vô tội nổi tiếng. Nhưng, chỉ ở một mức độ nào đó. Suy đoán vô tội bao quát lĩnh vực hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, quan hệ tư pháp và tố tụng liên quan đến việc buộc tội. Yêu cầu công nhận tính hợp pháp ban đầu trong hành vi của mọi công dân có ý nghĩa dân sự và nhân đạo nói chung; về bản chất, tuân theo thể chế quyền con người, nó đặt các cơ quan quyền lực vào vị thế phụ thuộc vào địa vị của công dân, và trong những tình huống, khi xuất hiện vấn đề về trách nhiệm pháp lý nảy sinh bắt buộc họ, trước hết, ngay cả trước khi xem xét tội lỗi của bất kỳ ai, phải xác định chính sự kiện của hành vi vi phạm pháp luật (tội phạm).

Tất nhiên, địa vị pháp lý “công dân được phép làm mọi điều trừ những gì pháp luật trực tiếp cấm” đòi hỏi phải có sự hiểu biết pháp lý chặt chẽ. Ngược lại với những tư tưởng mang tính hình thức hiện nay (như thể công thức trên mở ra không gian cho tình trạng vô chính phủ và dễ dãi, do đó công thức này không ngừng bị chỉ trích từ mọi phía), đối với chúng ta, đó là công thức pháp lý, và việc thực hiện nó không cho phép đạt được mục tiêu phản pháp quyền - tùy tiện và vô pháp luật. Công thức này đòi hỏi phải có trình độ văn hóa pháp luật cần thiết, trách nhiệm đạo đức và yêu cầu “nội dung pháp lý” tương ứng trong luận điểm chung được đưa ra về việc thiết lập theo các đạo luật các lĩnh vực của đời sống xã hội với trật tự hoạt động cho phép và quan trọng nhất là thiết lập bằng đạo luật ở phương diện khác của sự cho phép chung là việc quy định các điều cấm pháp luật cần thiết đối với tất cả các hành vi có hại cho xã hội, tạo thành những trường hợp ngoại lệ đối với sự cho phép chung.

Những luận điểm đã nêu về trật tự cho phép chung của điều chỉnh pháp luật cho phép chúng ta quay trở lại vấn đề pháp luật tư và các đạo luật dân sự thể hiện trật tự đó.

Cần phải nói rằng, các đạo luật dân sự đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành xã hội pháp quyền hiện đại, khi các nguyên tắc pháp luật chung trở thành thực tiễn hiện thực, một yếu tố không thể thiếu trong lối sống của con người. Nhưng ở đây, điều quan trọng cần nhấn mạnh là các đạo luật dân sự đạt được kết quả như vậy một cách chính xác bởi vì chúng khẳng định pháp luật tư trong sự tồn tại pháp luật - một lĩnh vực pháp lý rộng lớn và có ý nghĩa cao (ngược lại với pháp luật công), ở những nơi các nguyên tắc cho phép nói chung, hay nói cách khác, các nguyên tắc phi thực chứng chiếm ưu thế. Pháp luật tư với tư cách là nơi cư trú của tự do (chủ yếu là tự do kinh tế) trong xã hội pháp quyền trở thành một bộ phận quan trọng của toàn bộ chế độ pháp quyền nhân quyền.

Do vậy, cần phải quan tâm đến pháp luật dân sự. Điều quan trọng là những năm 1950-1960, những năm có sự trỗi dậy của nhân quyền, đánh dấu “cuộc cách mạng về pháp luật” lần thứ hai, cũng được đánh dấu bằng sự kiện là một thời kỳ phục hưng nổi tiếng của pháp luật dân sự và pháp luật tư đã bắt đầu ở các nước dân chủ. Sau niềm say mê vào những năm 1920-1930 với “luật kinh tế” và “luật thương mại”, các yếu tố hành chính và quyền lực trong điều kiện khủng hoảng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước phương Tây, được tăng cường cả về lý luận pháp lý và thực tiễn xét xử. Ở các nước này, điều đáng chú ý là sự thừa nhận giá trị của pháp luật dân sự dưới dạng “thuần túy”, không bị biến dạng bởi các hoạt động mệnh lệnh - quyền lực của nhà nước, đã gia tăng. Xu hướng này thể hiện rõ nét trong các văn bản pháp luật dân sự mới nhất của các nước phương Tây (đặc biệt là Bộ luật Dân sự của Hà Lan và tỉnh Quebec của Canada).

Và một trường hợp nữa cần được cân nhắc. Nguyên tắc “mọi thứ đều được phép, trừ những gì đạo luật trực tiếp cấm” áp dụng cho công dân và các hiệp hội của họ, chỉ phát huy được chức năng nhân đạo khi được kết hợp và hành động “trong cặp đôi” với nguyên tắc, hoàn toàn trái ngược về nội dung, “mọi thứ đều bị cấm, trừ điều được đạo luật cho phép trực tiếp”, nguyên tắc cần được áp dụng một cách nghiêm túc và nhất quán không phải đối với công dân mà đối với các cơ quan và quan chức nhà nước. Chỉ khi các cơ quan công quyền bị tước đi cơ hội hành động tùy tiện, tự ý xâm chiếm mọi lĩnh vực của đời sống và chỉ có quyền hành động theo cách này và trong giới hạn mà pháp luật trực tiếp quy định cho họ, chỉ trong trường hợp này, nguyên tắc cho phép chung (đối với công dân, hiệp hội của họ) mới có được đời sống hiện thực.

Nghiên cứu cho thấy, trong pháp luật có những mối quan hệ gần như mang tính chất toán học. Bản chất của sự kết hợp giữa hai nguyên tắc pháp luật được nêu trên với độ chính xác về mặt toán học chứng minh về bản chất của chế độ đó và hệ thống pháp luật. Trong các xã hội có hệ thống chuyên chế phản dân chủ, các cơ quan quyền lực hành động theo một chế độ cho phép chung (họ cho phép mình “mọi thứ”, đôi khi thậm chí không có bất kỳ “ngoại trừ” nào), còn các công dân và thần dân phải tuân theo chế độ cho phép: họ có quyền chỉ làm những gì họ được phép do văn bản quy phạm của nhà nước quy định hoặc bởi sự cho phép mang tính chất cá nhân của quan chức.

Trong xã hội dân chủ, trong đó pháp quyền nhân quyền được thiết lập, mối quan hệ này được thay đổi theo hướng hoàn toàn ngược lại như đã được nói trước đó: các cơ quan và quan chức nhà nước phải hành động tuân theo chế độ cho phép nghiêm ngặt, còn công dân và các hiệp hội của họ hành động theo các nguyên tắc cho phép chung.

5. Pháp quyền nhân quyền và pháp luật bác bỏ bạo lực

Còn một đặc điểm đặc trưng cơ bản, quan trọng nữa của triết học pháp quyền nhân quyền đối với pháp luật của xã hội pháp quyền hiện đại, là tính không tương thích của pháp luật như vậy với bạo lực.

Tuy nhiên, ở đây cần làm rõ thuật ngữ. Pháp luật nhìn chung không thể tách rời khỏi sức mạnh, nghĩa là với khả năng đặc trưng của các công cụ pháp lý và cơ chế pháp lý, vượt qua sự phản kháng của những người này hay những người khác bằng các phương pháp pháp lý, với sự trợ giúp của các quy định pháp luật để đạt được việc ý chí của con người phục tùng các quy định pháp luật hiện hành. Pháp luật không có sức mạnh là không phải pháp luật. Pháp luật là một công cụ sức mạnh của đời sống xã hội, có thể nói, điều này gắn liền với mọi thời kỳ phát triển của nó, cho đến thời điểm hiện tại, cho đến khi hình thành pháp luật nhân đạo trong đời sống ở các nước dân chủ tiên tiến. Và ở đây, trong pháp luật nhân đạo, phẩm chất của nó như một công cụ quyền lực không hề mất đi, nó chỉ được biến đổi theo yêu cầu của thời đại.

Cần phải phân biệt sức mạnh đơn thuần với bạo lực. Hiện tượng bạo lực nằm trong một chuỗi các hiện tượng khác với hiện tượng mọi người phải phục tùng các quy định pháp luật. Nó là một hiện tượng ở bên ngoài pháp luật. Nó bao gồm việc đàn áp, chà đạp lên ý chí của những người này hay những người khác, toàn bộ các tầng lớp dân cư, các dân tộc; hơn nữa, đàn áp không có luật lệ, quy tắc, bằng bất cứ giá nào và bằng bất kỳ phương tiện nào, khi ý chí của những người thực sự hoặc có khả năng bất tuân bị phá vỡ, thì hiện tượng “trở tay” xảy ra, bất kể mức độ nghiêm trọng của kết quả, bất kể nhân phẩm và quyền bẩm sinh của con người, sức khỏe và tính mạng của họ, thậm chí là để trả thù, trực tiếp hủy hoại thể xác của con người12.

Nhưng, chúng ta phải thừa nhận rằng, bạo lực là một hiện tượng của trật tự con người, nó cũng giống như những điều tốt đẹp và mang tính xây dựng trong cuộc sống của con người, là sản phẩm của lý trí và tự do, những mặt tối của con người, bị thống trị bởi bản năng và đam mê tàn ác. Nhưng so với khái niệm “pháp quyền” thì bạo lực vẫn là một chủ nghĩa lỗi thời, thậm chí có lẽ là lỗi thời với một trật tự phản văn minh đang ngự trị, tình trạng vô pháp luật, hỗn loạn tự hủy diệt lẫn nhau, quy luật chiến tranh.

Quyền lực nhà nước có những công cụ bạo lực đặc biệt vững mạnh trong xã hội, thường (trong giai đoạn phát triển đầu tiên của con người, dưới chế độ toàn trị) sử dụng quyền lực của mình cho các mục tiêu giai cấp, nhóm, cá nhân hẹp hòi, vì lợi ích của chính những người cai trị. Trong những điều kiện như vậy, các quy định pháp luật, pháp luật, tư pháp và các thể chế bảo vệ pháp luật khác đã được đưa vào hệ thống bạo lực nhà nước, trái với mục tiêu của chúng.

Nhưng pháp luật lại cần thiết trong lịch sử xã hội loài người, bởi vì chính cấu thành có giá trị quy phạm này mới có khả năng chống lại những mặt tối, phá hoại tự do, đe dọa sự tự hủy diệt nhân loại, và trên hết là chống lại bạo lực. Phẩm chất này được thể hiện đầy đủ trong pháp luật nhân đạo.

Và một lần nữa, như trong các trường hợp khác, ở đây pháp luật nhân đạo chỉ bị giới hạn bằng những kết luận chung và tuyên bố chung nêu trên là đủ trong toàn bộ tầm quan trọng của chúng đối với việc thiết lập một bầu không khí pháp lý nhất quán trong xã hội. Ngoài ra, cho dù ngắn gọn, dưới dạng khái quát, cần lưu ý đến những quy định pháp luật cơ bản nhất để bảo đảm cho sự vận động của pháp quyền nhân quyền như một hệ thống pháp luật không có bạo lực. Trong số các quy định pháp luật như vậy, được quy định bởi cả các trật tự hiện hành ở một số quốc gia và thực tiễn (tích cực và tiêu cực) của đời sống chính trị - xã hội, cần phải làm rõ những điều sau đây.

Thứ nhất, đây là việc áp dụng một trật tự chính trị - pháp lý nghiêm ngặt, được thực hiện một cách cẩn trọng, theo đó, không một xung đột nào trong xã hội có nguy cơ dẫn đến bạo lực được giải quyết ngoài luật pháp, ngoài tư pháp, các thủ tục pháp lý tư pháp nghiêm ngặt và đầy đủ.

Thứ hai, đây là sự nghiêm cấm tuyệt đối việc sử dụng lực lượng vũ trang chính quy nhằm mục đích giải quyết bất kỳ xung đột nội bộ nào (còn trong trường hợp cần thiết, chỉ sử dụng một bộ phận của lực lượng vũ trang, chẳng hạn, để tăng cường bảo vệ trật tự công cộng, các hoạt động của cảnh sát để thiết lập các lệnh cấm vô điều kiện nhằm loại trừ khả năng bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào).

Thứ ba, đây là sự thay đổi về địa vị, chức năng, trật tự hoạt động và sự phụ thuộc của các cơ quan “có sức mạnh” (an ninh quốc gia, cảnh sát, v.v..). Một sự thay đổi như vậy, sẽ đặt các cơ quan đó dưới khuôn khổ pháp luật, các thể chế tư pháp, sẽ giảm thiểu chức năng “có sức mạnh” của chúng đến mức tối thiểu cần thiết về mặt xã hội, sẽ loại trừ, theo đúng trật tự pháp quyền, khả năng sử dụng các cơ quan đó trong cuộc đấu tranh vì quyền lực, vì các mục đích chính trị khác - các mục đích mà trong mọi trường hợp không có ngoại lệ phải được thực hiện trên cơ sở luật pháp và thủ tục tố tụng, chứ không phải thông qua các hành động bạo lực.

6. Pháp quyền nhân quyền và tư pháp cao quý

Thành tố quan trọng nhất của triết học pháp luật nhân đạo, trực tiếp làm sáng tỏ ý nghĩa đặc trưng của nó với tư cách là quan niệm về pháp quyền nhân quyền, là tư pháp độc lập và vững mạnh, trao cho tư pháp đó những quyền năng và địa vị cao quý, làm cho nó có khả năng kiểm soát lại cơ quan hành pháp và, nếu cần thiết, cả cơ quan lập pháp, đưa ra các quyết định liên quan trực tiếp đến nhân quyền, các nguyên tắc pháp quyền dân chủ chung, các nguyên tắc của pháp luật tư.

Ở đây đã đến lúc phải làm rõ tính chất “vững mạnh” của pháp luật trong xã hội pháp quyền hiện đại. Pháp luật nhân đạo vẫn là một nhân tố sức mạnh vững mạnh trong đời sống xã hội (miễn là nó có khả năng kiểm soát quyền lực và thậm chí vượt lên trên nó). Nhưng pháp luật của xã hội pháp quyền hiện đại không thể hiện như một công cụ mà hiệu quả của nó được quyết định chủ yếu, đôi khi hoàn toàn, bởi bộ máy cưỡng chế nhà nước đứng đằng sau nó. Ngược lại, nhờ sức mạnh vững mạnh chứa đựng trong pháp luật tự nhiên, nó trở thành tác nhân điều chỉnh giá trị - quy phạm cơ bản tự đầy đủ. Và đằng sau nó, cùng với uy quyền của nhà nước, tư pháp độc lập là công cụ sức mạnh bên ngoài cơ bản của pháp luật.

Cuối cùng, chính một nền tư pháp độc lập và vững mạnh có thể biến pháp luật thành cấu thành có chủ quyền, đồng thời vững mạnh về mặt xã hội, độc lập với quyền tự quyết của quyền lực nhà nước, bao gồm cả quyền tự quyết định và đôi khi là tính tùy tiện thể hiện trong các văn bản lập pháp và các văn bản quy phạm khác.

Do đó, triết học pháp quyền nhân quyền yêu cầu phải có sự tồn tại của một hệ thống pháp luật phát triển, hoạt động dưới sự tổ chức của các thể chế quyền lực nhà nước, trong đó nền tư pháp độc lập và vững mạnh chiếm vị trí độc lập và cao quý.

Tất nhiên, trong một nền tư pháp độc lập và vững mạnh cũng ẩn chứa những mối nguy hiểm ghê gớm. Kinh nghiệm của một số quốc gia chỉ ra rằng, với một hệ thống pháp luật chưa phát triển, chưa được hình thành và một nền văn hóa pháp luật còn hạn chế, sự tuỳ tiện của nhà nước có thể xâm nhập vào các cơ quan tư pháp, lợi dụng vị thế độc lập của họ, có thể thoát khỏi sự kiểm soát của pháp luật và can thiệp trái pháp luật vào đời sống xã hội. Và rồi những lời cảnh báo của những người khôn ngoan ngày xưa, những người tin rằng, chế độ chuyên chế khủng khiếp nhất là chế độ chuyên chế núp dưới chiêu bài pháp chế, tư pháp, là có căn cứ.

Đó là lý do tại sao chúng ta không nên chỉ nói về nền tư pháp độc lập và vững mạnh mà còn về nền tư pháp cao quý - một nền tư pháp khi các hoạt động tư pháp, hoạt động tài phán được làm giàu bằng trình độ văn hóa pháp lý cao (bao gồm các thủ tục tố tụng được thiết lập công bằng, nhân văn và các bảo đảm ngăn ngừa sai sót và lạm dụng), và quan trọng nhất, nó được thực hiện bởi các nhà luật học có trình độ văn hoá cao, những người có trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất công dân và đạo đức của họ, có năng lực, khả năng thực thi công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong xã hội.

7. Các điểm tựa của pháp quyền nhân quyền

Việc thực hiện những lý tưởng về pháp quyền nhân quyền, phần lớn có thể nhìn thấy được trong tương lai, rõ ràng là một quá trình khó khăn, mâu thuẫn và lâu dài. Thành công của nó phụ thuộc vào nhiều thành phần và biến số, trước hết vào việc khẳng định các nguyên tắc của nền văn minh tự do, sự hình thành các thể chế cơ bản của xã hội pháp quyền, dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, sự phát triển của văn hóa, cả văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý lấy con người làm trung tâm, trạng thái trật tự pháp luật và pháp chế trong nước. Như những sự kiện gần đây cho thấy, ngay cả những nước dân chủ có nền văn hóa pháp luật khá cao (như Anh, Pháp, Mỹ, Đan Mạch, v.v..) không phải lúc nào cũng phát triển theo đường thẳng mà trái lại, theo đường ngoằn ngoèo và trở lại trước đây, với rất nhiều khó khăn, họ mới đạt tới các chỉ số cao hơn trong quá trình phát triển pháp luật của mình.

Đồng thời, có thể ghi nhận một số điểm tựa mà việc đạt được chúng, bất chấp mọi hoàn cảnh khác nhau (kể cả ở các nước mới bắt đầu con đường phát triển dân chủ), dường như là vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải có những nỗ lực bền bỉ.

Trong số các điểm tựa đó, các điểm tựa có phần trùng lặp với các đặc điểm đặc trưng của pháp luật của xã hội pháp quyền nêu trên, có bốn điểm tựa sau đây.

Thứ nhất, sự gia tăng thường xuyên các quyền và tự do của con người trong đời sống xã hội, mang lại cho các quyền và tự do đó ý nghĩa chiếm ưu thế trong pháp luật, và không kém phần quan trọng, trong luật học thực tiễn, trong dư luận xã hội;

Thứ hai, việc ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật, trước hết là trong Hiến pháp, trong các văn bản được pháp điển hóa, các nguyên tắc pháp quyền dân chủ có thể trở thành nền tảng quy phạm cho các quyết định của các cơ quan tư pháp về những vấn đề chưa được giải quyết trong pháp luật hiện hành;

Thứ ba, nâng cao vị thế của pháp luật tư (nếu cần thiết, khôi phục và phát triển nó), được thể hiện bằng luật dân sự đã được chứng minh tương ứng với trình độ thế giới;

Thứ tư, nâng cao vị thế của tòa án, thực hiện các biện pháp hữu hiệu để tăng cường tính độc lập, sức mạnh, địa vị cao quý của tòa án, có khả năng, nếu cần thiết, kiểm soát sự tùy tiện có thể có của các cơ quan hành chính - hành pháp và lập pháp; hơn nữa, với việc tăng cường đồng thời các bảo đảm về thủ tục nhằm ngăn chặn sự tùy tiện từ phía các cơ quan tài phán.

Kết luận

Những tư tưởng được trình bày tóm tắt nói trên về pháp quyền nhân quyền đáp ứng yêu cầu của xã hội pháp quyền hiện đại không gì khác hơn là những lý tưởng - một hình ảnh khái quát có được nhờ có sự tổng hợp các xu hướng và thành tựu phát triển của luật pháp và thực tiễn pháp lý của các nước dân chủ với một nền văn hóa pháp luật phát triển, những trải nghiệm tích cực và tiêu cực trong nước, cũng như những quan điểm của tác giả, có thể là còn gây tranh cãi, về vị trí và vai trò của pháp luật trong đời sống con người.

Những điều được trình bày là những lý tưởng đơn giản và rõ ràng. Chúng phù hợp với những nhu cầu và khát vọng cũng đơn giản, rõ ràng, tươi sáng của con người. Và, điều đặc biệt quan trọng, chính chúng, những lý tưởng về pháp quyền nhân quyền, mới có thể đưa ra những phác thảo lạc quan về tương lai của con người, xác định phiên bản tối ưu, khẳng định bằng cuộc sống và xứng đáng về triển vọng phát triển của cộng đồng nhân loại.

GS.TS. Võ Khánh Vinh

Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 37 (04/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.131 (bản tiếng Nga).

(2) Baskin Yu.Ya. Các tiểu luận về triết học pháp luật, tr. 54 (bản tiếng Nga).

(3) Võ Khánh Vinh, Về xã hội pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2020.

(4) Trích theo: Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.135 (bản tiếng Nga).

(5) Schelling F.V. Toàn tập, T. 1, tr. 456 (bản tiếng Nga).

(6) Tài liệu đã dẫn, tr. 450.

(8) Schelling F.V. Toàn tập, T. 1, tr. 447 (bản tiếng Nga).

(8) Tài liệu đã dẫn, tr. 458.

(9) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.136 (bản tiếng Nga).

(10) E.A. Lukaseva (Chủ biên), Lý luận chung về quyền con người, tr.136 (bản tiếng Nga).

(11) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.138 (bản tiếng Nga).

(12) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.142 (bản tiếng Nga).