Bài viết phân tích 04 nội dung: (1) Khái niệm và yêu cầu phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới; (2) Thực trạng thực hiện vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới và nguyên nhân; (3) Giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
1. Khái niệm và yêu cầu phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
a) Khái niệm vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người
Giám sát của Quốc hội là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý1. Giám sát của Quốc hội bao gồm giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội2. Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và hoạt động tư pháp (theo nghĩa rộng) của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan khác do Quốc hội thành lập3.
Hoạt động tư pháp (theo nghĩa rộng) là hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quyền con người là quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương...4.
Vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý nhằm bảo vệ quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người được thể hiện tập trung qua vai trò giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội5. Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn: (1) Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, phòng, chống tham nhũng, tổ chức bộ máy của cơ quan tư pháp; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. (2) Giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách6.
b) Yêu cầu phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đặt ra 04 yêu cầu phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; phát huy tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước nói chung, hoạt động tư pháp nói riêng.
Thứ hai, đề cao vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Gắn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với đơn vị bầu cử và cử tri; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; hoàn thiện cơ chế giám sát của cử tri và cơ chế, phương thức, tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo đảm các điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện tốt vai trò trung tâm của mình.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo hướng nghiên cứu tăng hợp lý số kỳ họp của Quốc hội; kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp quy định; đề cao vị trí, vai trò, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách nhiệm, chuyên sâu, nhạy bén; hoàn thiện thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội, Ban Thư ký Quốc hội; xây dựng Quốc hội điện tử.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp thực tiễn; nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, chú trọng việc theo dõi, xem xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát; thực hiện nghiêm việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội7.
Toàn cảnh buổi Khai mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV. Nguồn: baochinhphu.vn.
2. Thực trạng thực hiện vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới và nguyên nhân
Trong những năm qua, Quốc hội ngày càng chú trọng đến công tác giám sát hoạt động tư pháp và đạt nhiều kết quả rất tích cực. Hằng năm, vào kỳ họp cuối năm, Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng; báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có thể nói đây là hoạt động giám sát về lĩnh vực tư pháp được thực hiện thường xuyên, đều đặn nhất của Quốc hội. Quốc hội đã dành thời gian để thảo luận, xem xét các báo cáo một cách nghiêm túc, trách nhiệm, thẳng thắn; từ đó, có cơ sở đánh giá, xem xét một cách khách quan, đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, sát thực tế, góp phần quan trọng vào việc kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Những năm gần đây, trên cơ sở kết quả xem xét, thảo luận tại hội trường về công tác tư pháp, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về công tác tư pháp8, thể hiện bước phát triển mới trong công tác giám sát của Quốc hội trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới còn một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, giám sát các chuyên đề lớn về tư pháp (ở cấp độ giám sát tối cao của Quốc hội) chưa được chú trọng. Một số cuộc giám sát chưa sâu; cách thức tiến hành giám sát vẫn chủ yếu nghe các cơ quan tư pháp báo cáo; chưa tổ chức cho các đơn vị chuyên môn xuống địa phương trước để nắm tình hình, rút hồ sơ nghiên cứu các vụ án cụ thể. Việc giám sát đối với các vụ án bức xúc, dư luận xã hội quan tâm chưa tiến hành được nhiều9. Hoạt động giám sát chuyên đề chủ yếu vẫn dựa trên việc xem xét báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, thông tin từ các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu; việc cung cấp thông tin của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chậm hoặc thông tin chưa được sử dụng hiệu quả. Một số cơ quan chịu sự giám sát chưa thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Đoàn giám sát, việc gửi báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát còn chưa đúng thời hạn, chất lượng một số báo cáo chưa đạt yêu cầu10.
Thứ hai, có thành viên Chính phủ, trưởng ngành trả lời chỉ mới tập trung vào báo cáo thực trạng, chưa phân tích yếu tố chủ quan, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hạn chế, bất cập và các giải pháp cụ thể với kế hoạch, tiến độ rõ ràng nhằm khắc phục hạn chế, bất cập; có trường hợp trả lời né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh, đổ lỗi cho khách quan, chưa định lượng được sự hài lòng của đại biểu Quốc hội đối với việc trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ, các trưởng ngành. Việc không ban hành nghị quyết chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội dẫn tới thiếu cơ sở pháp lý để giám sát, đánh giá lại việc thực hiện các lời hứa, giải pháp của người bị chất vấn11.
Thứ ba, hoạt động giải trình chưa được quan tâm đúng mức, chưa cân đối với các hoạt động giám sát, khảo sát. Việc các cơ quan của Quốc hội tổ chức các phiên giải trình theo cách thức và trình tự riêng của mình12 do chưa có quy định thống nhất về cách thức tiến hành các phiên giải trình nên chưa tạo được tính chủ động cho các chủ thể yêu cầu giải trình đối tượng được yêu cầu giải trình, các đối tượng có liên quan cũng như các cơ quan phục vụ trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện phiên giải trình; đối tượng tham dự các phiên giải trình còn hạn chế, chưa thật đầy đủ; thiếu những thông tin mang tính phản biện, thiếu sự tham dự của những chuyên gia hoặc đối tượng chịu tác động của chính sách nên phần nào ảnh hưởng đến tính hiệu quả, hiệu lực giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Thứ tư, kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri hầu hết mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin, giải trình thêm về vấn đề được quan tâm mà chưa đi sâu vào thực chất của việc giải quyết. Việc theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn hạn chế, chưa có điều kiện nghiên cứu sâu để làm rõ hướng xử lý dứt điểm một số vụ việc; một số vụ việc cụ thể có kiến nghị từ các kỳ trước còn để kéo dài, không nêu rõ lộ trình giải quyết, cá biệt có vụ việc chưa có báo cáo13.
Thứ năm, công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp chưa được bố trí thời gian thật thỏa đáng; nội dung giám sát phần lớn tập trung vào những vấn đề như trách nhiệm trong việc bảo đảm tiến độ ban hành văn bản, số văn bản chưa được ban hành theo quy định; việc phát hiện các văn bản có quy định không phù hợp, còn chồng chéo, mâu thuẫn... chưa được nhiều14. Thực tế giải quyết một số vụ án hình sự cho thấy, vi phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm, tội phạm và gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội15.
Nguyên nhân của thực trạng thực hiện vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
Thứ nhất, một số quy định của pháp luật chưa rõ, chưa đầy đủ; một số vấn đề chưa có thể chế điều chỉnh. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 tuy đã quy định về thẩm quyền, nhiệm vụ của từng chủ thể giám sát, nhưng chưa phân định rõ phạm vi, đối tượng giám sát, dẫn đến việc cùng một đối tượng nhưng có nhiều cơ quan có thẩm quyền giám sát. Bên cạnh đó, nội dung, tiêu chí, thẩm quyền tiến hành giám sát đối với các vụ án cụ thể cũng chưa được thể hiện rõ trong Luật. Một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc chung, thiếu hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến những vướng mắc, bất cập trong thực hiện. Chưa quy định cụ thể về định kỳ xem xét việc giải quyết kiến nghị giám sát tại các kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội16; về việc tiếp nhận, tổng hợp các kiến nghị giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội. Chưa có chế tài cụ thể trong trường hợp cơ quan chức năng chậm hoặc không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân do đại biểu Quốc hội chuyển đến. Chưa cụ thể quy trình để đại biểu Quốc hội tự mình thực hiện giám sát17; cách thức tiến hành các phiên giải trình.
Thứ hai, nhận thức về vai trò của hoạt động tư pháp và tầm quan trọng của công tác giám sát hoạt động tư pháp, về trách nhiệm giám sát hoạt động tư pháp của một số đại biểu Quốc hội, một số đối tượng chịu sự giám sát và một số thành viên được mời tham gia giám sát chưa đầy đủ. Trong một số trường hợp, đại biểu Quốc hội, đối tượng chịu sự giám sát và thành viên được mời tham gia giám sát chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm và khả năng của mình khi thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Còn tồn tại tư tưởng xem nhẹ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động tư pháp và công tác giám sát hoạt động tư pháp18.
Thứ ba, khối lượng công việc của các cơ quan của Quốc hội khá lớn, nhiều việc phức tạp, áp lực về thời gian, một số nội dung giám sát có phạm vi rộng, tính chuyên sâu cao đòi hỏi yêu cầu cao về thời gian và chất lượng, trong khi các cơ quan của Quốc hội chưa có đủ thời gian và nguồn lực dành cho công tác giám sát hoạt động tư pháp19. Pháp luật tuy có quy định có nhiều hình thức giám sát nhưng việc sử dụng hình thức giám sát chưa linh hoạt, chưa tận dụng hết các thẩm quyền được pháp luật quy định trong hoạt động giám sát20.
Thứ tư, số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách còn ít, phần lớn là đại biểu kiêm nhiệm nên khó khăn trong sắp xếp thời gian tham gia giám sát hoạt động tư pháp, trong khi công tác giám sát hoạt động tư pháp đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Hơn nữa, đại biểu kiêm nhiệm vừa tham gia cơ quan quyền lực, vừa tham gia cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp nên rất khó đảm bảo tính khách quan và chính xác trong công tác giám sát. Một số đoàn đại biểu có số lượng đại biểu khá ít, khó triển khai được nhiều hoạt động giám sát21.
Thứ năm, chất lượng đại biểu Quốc hội chưa đồng đều, một số đại biểu thiếu tự tin, hạn chế về kỹ năng, thiếu thông tin, chưa chủ động tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm giám sát hoạt động tư pháp, không quyết liệt và ngại va chạm. Bản lĩnh, kỹ năng, kinh nghiệm giám sát về lĩnh vực tư pháp của một bộ phận đại biểu Quốc hội chưa đáp ứng yêu cầu22. Công tác tập huấn, trao đổi kỹ năng, kinh nghiệm giám sát hoạt động tư pháp để đại biểu Quốc hội nắm chắc pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng, có kỹ năng, bản lĩnh trong công tác giám sát còn hạn chế23.
Thứ sáu, công tác phối hợp chưa chặt chẽ, chưa hiệu quả; việc gửi tài liệu báo cáo đoàn giám sát đôi khi còn chậm, cá biệt có trường hợp chỉ gửi trực tiếp tại cuộc làm việc hoặc chỉ gửi dự thảo báo cáo24; nội dung nhiều báo cáo còn sơ sài, ít số liệu minh chứng nên báo cáo của Đoàn giám sát có nội dung phản ánh chưa hết; việc dự họp của địa phương đôi khi chưa đủ, chưa đúng thành phần25.
Thứ bảy, các điều kiện bảo đảm cho công tác giám sát hoạt động tư pháp của các cơ quan của Quốc hội còn hạn chế. Bộ máy tham mưu, giúp việc chưa đảm bảo cả về số lượng và chất lượng26.
3. Giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
Để phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới cần thực hiện những giải pháp sau đây:
a) Đổi mới nhận thức về vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
Xác định việc đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Hoạt động giám sát tối cao nói riêng và tổng thể hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung cần bám sát các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Nghị quyết, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là về các vấn đề lớn, được xã hội quan tâm. Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa phải bám sát, đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của Nhân dân và cử tri; đồng thời phải gắn với công tác lập pháp, cung cấp thông tin thực tiễn để hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quy định của pháp luật, tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, trong đó, trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Các quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội cần cụ thể, xác định rõ: vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội - một trong các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước; mối quan hệ biện chứng giữa chức năng giám sát và chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; quy định cụ thể về phạm vi, đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, vai trò, trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát trong việc thực hiện các kết luận giám sát... Trong quá trình triển khai các hoạt động giám sát (chất vấn, giám sát chuyên đề, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân của cử tri...), Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội chú trọng nội dung “phòng, chống tiêu cực”, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và được tiến hành toàn diện và công khai, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, có nhiều dư luận về tham nhũng, tiêu cực, về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Phát huy cơ chế tham gia của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong hoạt động giám sát, trong đó có giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
b) Hoàn thiện thể chế làm cơ sở phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động tư pháp bảo vệ quyền con người theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
Sửa đổi một số quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân theo hướng: quy định rõ chủ thể xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn, giám sát chuyên đề. Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần ngắn gọn, trong đó đưa một số nội dung chính như: thành phần Đoàn, phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian xem xét báo cáo..., giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch, đề cương giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội. Bảo đảm tính công khai của phiên giải trình; theo đó, kế hoạch tổ chức phiên giải trình cần được đăng trên Trang thông tin điện tử của Quốc hội, Báo Đại biểu Nhân dân, Truyền hình Quốc hội, để các đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, đối tượng chịu sự tác động của chính sách có thể biết và đăng ký tham dự hoặc gửi ý kiến tham gia. Quy định “các chuyên gia, nhà khoa học, đối tượng chịu sự tác động của chính sách” là thành phần chính được mời tham dự phiên giải trình. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân theo hướng nội dung kiến nghị rõ, hạn định cụ thể thời gian hoàn thành; phân công cán bộ chuyên môn theo dõi, giám sát việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát; có kế hoạch định kỳ làm việc với các Bộ, ngành trung ương để đánh giá việc thực hiện các kiến nghị của Đoàn giám sát; có cơ chế đánh giá mức độ khắc phục tồn tại, hạn chế của cơ quan chịu sự giám sát; báo cáo định kỳ kết quả theo dõi sau giám sát thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội phụ trách gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội; ràng buộc đối tượng được giám sát trong một thời hạn nhất định phải trả lời bằng văn bản những vấn đề mà chủ thể giám sát yêu cầu; ban hành những quy định pháp luật cụ thể về thẩm quyền, trình tự thực hiện các biện pháp kiến nghị, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản nếu phát hiện có sai phạm. Quy định cụ thể biện pháp xử lý đối với việc không thực hiện các kết luận, kiến nghị của Đoàn giám sát, gắn với quyền hạn trong lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm, bãi miễn các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Xây dựng và quản lý hệ thống theo dõi, cập nhật tiến độ triển khai thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát. Nghiên cứu cơ chế phát huy sự tham gia của người dân theo dõi, giám sát thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát, nhất là ở cấp cơ sở; cơ chế để người dân phản ánh nhận xét, thông tin về tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát27. Quy định rõ trách nhiệm mời Mặt trận Tổ quốc; quy định cụ thể cách thức thu thập ý kiến, kiến nghị của Nhân dân, cử tri để xây dựng chương trình giám sát; tham gia của Nhân dân trong quá trình thực hiện giám sát28. Tùy theo tính chất và quy mô giám sát, trong quá trình thực hiện một số hoạt động giám sát có nội dung liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của người dân có thể tổ chức họp với người dân, đối tượng chịu tác động của chính sách. Đặc biệt, với các hoạt động giám sát chuyên đề có nội dung về thực hiện cơ chế, chính sách, và pháp luật trên địa bàn, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, và kiến nghị của cử tri. Quy định cụ thể hơn về trách nhiệm đăng tải rộng rãi trên các kênh khác nhau các văn bản kế hoạch, chương trình, kết quả giám sát; các kiến nghị, tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát để Nhân dân theo dõi, giám sát tiến độ, kết quả của việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát; tạo điều kiện để báo chí dự, đưa tin về các hoạt động giám sát; sử dụng có hiệu quả truyền thông về hoạt động giám sát, hậu giám sát thông qua phương tiện thông tin đại chúng, các cổng thông tin điện tử, trang web29,30.
c) Đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội
Xây dựng chương trình giám sát gắn với công tác lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, cân đối giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đánh giá toàn diện, bám sát tình hình thực tiễn, tập trung vào những vấn đề như: hoạt động của bộ máy nhà nước; việc ban hành và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực; việc ban hành các kết luận thanh tra, kiểm toán, việc thực hiện các điều ước quốc tế... các vấn đề được dư luận, cử tri, đại biểu Quốc hội quan tâm. Nghiên cứu lồng ghép nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực trong báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng. Theo đó, hàng năm, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo Quốc hội về nội dung này, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội sẽ chủ trì, phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác tiến hành thẩm tra. Tại các kỳ họp cuối năm, căn cứ tình hình thực tế, có thể bố trí để Quốc hội xem xét báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cùng với xem xét báo cáo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thống nhất số liệu các báo cáo trình Quốc hội, cập nhật đến ngày 30 tháng 3 đối với các báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp giữa năm và cập nhật đến ngày 30 tháng 9 đối với các báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp cuối năm. Nghiên cứu chuyển việc xem xét một số báo cáo công tác tại kỳ họp đầu năm. Đổi mới phương thức giám sát linh hoạt, chú trọng thành phần tham gia, mời các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động độc lập. Phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng thành viên Đoàn giám sát. Xây dựng báo cáo kết quả giám sát bảo đảm chất lượng, trong đó kiến nghị cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan được phát hiện có vi phạm qua hoạt động giám sát. Cung cấp điều kiện hỗ trợ về thông tin, ứng dụng công nghệ hiện đại để phục vụ hoạt động giám sát: (1) nâng cấp, hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng mạng thông tin trong hệ thống các cơ quan của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành đề án Quốc hội điện tử; (2) xây dựng, sử dụng phần mềm tích hợp trên Internet, liên thông với các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương; (3) tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung về các hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân như các kiến nghị sau giám sát; những vấn đề, nội dung cử tri có ý kiến; khiếu nại, tố cáo của công dân; tình hình, kết quả xem xét, giải quyết, trả lời của Chính phủ, Bộ, ngành, cơ quan liên quan; thực hiện lưu trữ, sử dụng chung, công khai trên hệ thống dữ liệu để cử tri, Nhân dân và đại biểu Quốc hội theo dõi, giám sát31. Có “chế tài” đối với các cơ quan không gửi báo cáo đến Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đúng thời hạn quy định; xác định thống nhất về mốc thời gian lấy số liệu trong các báo cáo. Thực hiện nghiêm, đầy đủ quy trình, thủ tục xem xét các báo cáo của Chính phủ, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì, phối hợp thẩm tra để thống nhất trong thực hiện. Tăng tranh luận, đi sâu làm rõ vấn đề, trách nhiệm trong thảo luận, xem xét các báo cáo; sử dụng hiệu quả thông tin từ cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, chuyên gia, nhà nghiên cứu.
d) Đổi mới về công tác bảo đảm hoạt động giám sát
Kiện toàn tổ chức bộ máy Văn phòng Quốc hội theo hướng thống nhất, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự hợp lý, rõ ràng trong việc phân định chức năng, nhiệm vụ, có tính ổn định, nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn sâu trong phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội. Tăng cường chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng cho đội ngũ công chức làm công tác tham mưu phục vụ hoạt động giám sát; tạo điều kiện để các vụ, đơn vị tập trung làm tốt nhiệm vụ tham mưu, phục vụ Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có cơ chế phù hợp để thu hút các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu về các lĩnh vực. Tăng cường các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc, điều kiện bảo đảm phục vụ hoạt động giám sát Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội32. Nghiên cứu xây dựng chế độ định mức hợp lý phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, trong đó quy định cụ thể mức chi nghiên cứu, thẩm định các báo cáo giám sát; thực hiện cơ chế thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn đánh giá độc lập để tổ chức giám sát chuyên sâu theo từng chuyên đề, nội dung giám sát. Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng và nâng cao năng lực về hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội; cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời đến đại biểu Quốc hội; kiện toàn, tập huấn, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm, xây dựng, hoàn thiện bộ máy tham mưu, giúp việc tinh gọn, chất lượng, chuyên nghiệp, hiệu quả33,34.
TS. Đỗ Đức Hồng Hà
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 6 (35) - 2023
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
(2) Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. (Điều 2)
(3) Văn phòng Quốc hội (2020), Văn bản hợp nhất Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020, số 24/VBHN-VPQH ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Văn phòng Quốc hội. (Điều 6)
(4) Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 1079/QĐ-TTg ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam.
(5) Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. (Điều 10)
(6) Văn phòng Quốc hội (2020), Văn bản hợp nhất Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020, số 24/VBHN-VPQH ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Văn phòng Quốc hội. (Điều 6)
(7) Ban Chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
(8) Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013; Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm; Nghị quyết số 67/2013/QH13 về việc tăng cường công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26/6/2015 về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo; Nghị quyết số 113/2015/QH13 về tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn; Nghị quyết thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV (11/2019) về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của TAND và công tác thi hành án v.v...
(9) Đảng đoàn Quốc hội (2019), Báo cáo số 1420-BC/ĐĐQH14 ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Đảng đoàn Quốc hội tổng kết Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
(10) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Báo cáo số 524/BC-UBTVQH14 ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội năm 2019.
(11) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Báo cáo số 524/BC-UBTVQH14 ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội năm 2019.
(12) Mỗi Ủy ban có cách thức tổ chức riêng, ví dụ như: Có Ủy ban tổ chức giải trình có truyền hình trực tiếp, có Ủy ban không truyền hình trực tiếp; có Ủy ban có phần nghe báo cáo của cơ quan giải trình, nhưng cũng có trường hợp bắt đầu ngay vào việc hỏi vì tài liệu đã được gửi trước; có Ủy ban giới hạn thời gian và số lượng câu hỏi mỗi lần hỏi, nhưng cũng có Ủy ban không có giới hạn này; có Ủy ban hỏi và trả lời ngay và cũng có thể hỏi lại ngay nhưng cũng có có Ủy ban điều hành theo cách nhiều câu hỏi, thậm chí tất cả các câu hỏi được nêu lên một lượt, sau đó Bộ trưởng mới trả lời...
(13) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Báo cáo số 524/BC-UBTVQH14 ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội năm 2019.
(14) Ủy ban Tư pháp (2016): Kỷ yếu Ủy ban Tư pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (2011-2016), Lưu hành nội bộ, Nxb. Công an nhân dân, trang 956.
(15) Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo số 179/BC-VKSTC ngày 10/10/2019 về công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV.
(16) Tương tự như xem xét, giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri.
(17) Quốc hội khóa XIV (2021), Báo cáo số 10/BC-QH14 ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Quốc hội khóa XIV về công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV.
(18) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Báo cáo số 524/BC-UBTVQH14 ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội năm 2019.
(19) Quốc hội khóa XIV (2021), Báo cáo số 10/BC-QH14 ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Quốc hội khóa XIV về công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV.
(20) Quốc hội khóa XIV (2021), Báo cáo số 10/BC-QH14 ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Quốc hội khóa XIV về công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV.
(21) Quốc hội khóa XIV (2021), Báo cáo số 10/BC-QH14 ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Quốc hội khóa XIV về công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV.
(22) Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số 49-NQ/TW (2020), Báo cáo kết quả tổng kết Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.
(23) Quốc hội khóa XIV (2021), Báo cáo số 10/BC-QH14 ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Quốc hội khóa XIV về công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV.
(24) Theo Báo cáo số 2337/BC-UBTP ngày 05/02/2020 của Ủy ban Tư pháp.
(25) Theo Báo cáo số 2570/BC-UBVHGDTTN14 ngày 04/02/2020 của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng.
(26) Tạ Đình Tuyên (2013), Một số vấn đề cần lưu ý về công tác xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
(27) TS. Đinh Thị Phương Lan (2023), Đổi mới, phát triển về hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội: kết quả, hạn chế, đề xuất, kiến nghị, Hội thảo “Quốc hội Việt Nam - 80 năm đổi mới và phát triển về hoạt động giám sát” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Văn phòng Quốc hội phối hợp tổ chức, Hà Nội, ngày 21/10/2023.
(28) Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân chưa quy định về sự tham gia của người dân trong các hoạt động giám sát.
(29) Các phiên chất vấn của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi không chỉ được truyền hình trực tiếp trên sóng phát thanh, truyền hình, mà còn phát trực tiếp trên trang facebook “Truyền hình Quảng Ngãi” để Nhân dân, cử tri trên toàn tỉnh và ngoài tỉnh theo dõi, đặt câu hỏi chất vấn. Tại các phiên chất vấn, qua trang mạng xã hội này, nhiều cử tri đặt câu hỏi chất vấn và được chuyển đến Chủ toạ điều hành chất vấn trực tiếp các sở, ban, ngành; một số câu hỏi chuyển đến Uỷ ban nhân dân tỉnh trả lời bằng văn bản cho cử tri.
(30) TS. Đinh Thị Phương Lan (2023), Đổi mới, phát triển về hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội: kết quả, hạn chế, đề xuất, kiến nghị, Hội thảo “Quốc hội Việt Nam - 80 năm đổi mới và phát triển về hoạt động giám sát” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Văn phòng Quốc hội phối hợp tổ chức, Hà Nội, ngày 21/10/2023.
(31) Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và một số địa phương đã ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Hội đồng nhân dân. Hệ thống này có thể được sử dụng để theo dõi, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp.
(32) Ban Chỉ đạo Đề án Tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2022), Dự thảo Đề án tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội của Ban Chỉ đạo Đề án Tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 20 tháng 7 năm 2022.
(33) TS. Đinh Thị Phương Lan (2023), Đổi mới, phát triển về hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội: kết quả, hạn chế, đề xuất, kiến nghị, Hội thảo “Quốc hội Việt Nam - 80 năm đổi mới và phát triển về hoạt động giám sát” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Văn phòng Quốc hội phối hợp tổ chức, Hà Nội, ngày 21/10/2023.
(34) Ban Chỉ đạo Đề án Tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2022), Dự thảo Đề án tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội của Ban Chỉ đạo Đề án Tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 20 tháng 7 năm 2022.