Thực hiện chủ trương đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng […] và chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từ những ngày đầu thành lập năm 2019 tới nay, Khoa Luật Kinh tế, Học viện Chính sách và Phát triển (tiền thân là Bộ môn Luật Kinh tế) là đơn vị đào tạo cử nhân luật kinh tế của ngành Kế hoạch và Đầu tư luôn nhận định tầm quan trọng của tích hợp nội dung quyền con người trong giảng dạy các học phần pháp luật đầu tư - kinh doanh.
1. Khái quát chương trình đào tạo ngành Luật kinh tế, chuyên ngành Luật Đầu tư - Kinh doanh
Chương trình đào tạo ngành Luật kinh tế, chuyên ngành Luật Đầu tư - Kinh doanh tại Học viện Chính sách và Phát triển gồm 126 tín chỉ, trong đó: kiến thức giáo dục đại cương chiếm 30%; kiến thức giáo dục chuyên nghiệp (cơ sở ngành; ngành; chuyên ngành; thực tập) chiếm 70%. Chương trình được thiết kế tích hợp các học phần của ngành kinh tế (12/57 học phần) và ngành luật kinh tế (45/57 học phần). Trong đó, bên cạnh khối lượng học phần đại cương và kiến thức cơ sở ngành tương tự các ngành đào tạo luật khác, các học phần liên quan kiến thức ngành và chuyên ngành chú trọng nhiều hơn các học phần kinh tế với thế mạnh truyền thống của ngành Kế hoạch và Đầu tư, kể tới như: pháp luật doanh nghiệp; pháp luật về đầu tư; luật đầu tư quốc tế; luật cạnh tranh; luật và chính sách công; luật lao động; luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…
Mặc dù chưa đưa pháp luật về quyền con người thành một học phần riêng biệt trong chương trình đào tạo hiện hành của cơ sở, tuy nhiên, thực tiễn giảng dạy các học phần trong chương trình đào tạo của Khoa đã có những tích hợp nội dung nhất định và bước đầu sinh viên đã hiểu và nắm bắt phần nào về các quyền con người, quyền công dân thông qua bài giảng, đặc biệt các học phần về luật đầu tư - kinh doanh là thế mạnh đào tạo của đơn vị.
2. Định hướng phương pháp tiếp cận và nội dung tiếp cận quyền con người
2.1 Định hướng phương pháp tiếp cận
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật đầu tư - kinh doanh gắn với kiến thức và thực tiễn kinh tế.
Do đặc thù vận động và biến đổi không ngừng của kinh tế, phương pháp tiếp cận trong giảng dạy các học phần ngành luật kinh tế luôn đòi hỏi vận động phù hợp với nhận thức của sinh viên và bối cảnh chung của kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Ví dụ: giảng dạy học phần Luật Đầu tư trong bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới bị tác động bởi đại dịch COVID-19 thì vấn đề quyền con người sẽ khác so với các giai đoạn khác. Việc áp dụng đan xen các phương pháp tiếp cận luật học; kinh tế học cùng các phương pháp khác cũng sẽ cung cấp cho sinh viên cái nhìn đa chiều, sâu sắc hơn.
Thứ hai, phương pháp tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật đầu tư - kinh doanh cần ưu tiên áp dụng các phương pháp giảng dạy đề cao thực tiễn.
Khác với các ngành luật khác nhìn nhận quyền con người dưới góc độ nghiên cứu lý luận hàn lâm, quyền con người trong hoạt động kinh tế đòi hỏi các phương pháp giảng dạy trực quan, thực tế và gia tăng khả năng thực hiện trong thực tiễn hành nghề, công tác. Quá trình giảng dạy và truyền đạt kiến thức pháp luật đầu tư - kinh doanh từ đó đòi hỏi vận dụng đa dạng phương pháp hướng tới các mục đích cơ bản như: (1) Dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ tiếp cận cho người học; (2) Hài hòa giữa nội dung lý thuyết hàn lầm và thực tiễn xã hội; (3) Gia tăng mức độ chủ động của người, biến người học thành trung tâm của quá trình đào tạo. Do vậy các phương pháp giảng dạy như: phương pháp case study; phương pháp tranh luận; phương pháp diễn án; phương pháp thực tế kiến tập/thực hành được coi là phù hợp. Ví dụ: phương pháp case study được áp dụng thông qua các bản án, án lệ trong từng học phần, sinh viên được tiếp cận quy trình tố tụng và cơ sở pháp lý, lập luận giải quyết vụ việc từ đó có thể vận dụng trong hành nghề.
2.2 Nội dung tiếp cận
Trên cơ sở định hướng kể trên, nội dung tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật đầu tư - kinh doanh mặc dù có liên quan ở mọi nhóm quyền con người cơ bản, tuy nhiên trọng tâm tiếp cận về nội dung tập trung về một số quyền cụ thể như:
Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh trong nhóm quyền kinh tế.
Được nhìn nhận là thế hệ quyền con người thứ hai[1] được định hình sau Thế chiến II, các quyền con người trong lĩnh vực kinh tế là động lực của Cuộc cách mạng khoa học công nghệ thứ 3 và thứ 4. Quyền này được ghi nhận tại từ Điều 22 đến Điều 27 Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người 1948 (UDHR 1948); từ Điều 6 đến Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội 1966 (ICESCR 1966); Điều 22 và 27 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (ICCPR 1966). Hệ thống quyền được phát triển ở cấp độ khu vực: Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc 1981 (ACHPR 1981); Hiến chương xã hội châu Âu 1961 sửa đổi 1996 (ESC 1996); Công ước châu Mỹ về Nhân quyền 1969 (ACHR 1969) và Hiến chương ASEAN 2008. Trong nội hàm quyền kinh tế, quyền tự do kinh doanh có thể coi là động lực phát triển và cơ sở thành tựu kinh tế thế giới từ khi được ghi nhận tới nay. Gốc của quyền tự do kinh doanh được nhìn nhận từ quyền tự nhiên của con người về sở hữu tài sản; về tự do ý chí và được bảo đảm về công bằng, bình đẳng.
Từ năm 2014, Chính phủ đã xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng tới phát triển bền vững là một trọng tâm cải cách, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra tại Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 theo các nghị quyết của Quốc hội, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, thích ứng linh hoạt, hiệu quả với bối cảnh dịch COVID-19, Chính phủ ban hành Nghị quyết tiếp nối các Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 19/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức liên quan tập trung triển khai thực hiện. Những cải cách này góp phần hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh đã được đề cập mạnh mẽ trong Hiến pháp năm 2013; Bộ luật dân sự năm 2015; Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2020.
Thứ hai, quyền lao động, làm việc, quyền kỹ thuật số trong bối cảnh CMCN 4.0 và chuyển đổi số trong kinh tế.
CMCN 4.0 được xây dựng trên nền tảng kỹ thuật số, được hình thành bởi công nghệ mới đột phá trong một số lĩnh vực bao gồm: dữ liệu lớn, robotics, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ nano, công nghệ sinh học, Internet vạn vật (IoT), in 3D, và xe tự lái. Công nghệ mới góp phần hỗ trợ cuộc sống tiện nghi, hiện đại của con người nhưng cũng đặt ra những rủi ro về quyền con người, trong đó, với cách tiếp cận kinh tế, đó là các nhóm quyền lao động, quyền làm việc, quyền kỹ thuật số. Ví dụ: giảng dạy Luật Bảo vệ quyền lợi NTD trong bối cảnh CMCN 4.0 đặt ra các vấn đề mới như biến đổi về hành vi tiêu dùng; phương thức cung cấp hàng hóa/dịch vụ mới; hợp đồng thông minh; hợp đồng kỹ thuật số… hoặc giảng dạy Luật Cạnh tranh trong CMCN 4.0 hình thành các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh thông qua hội, nhóm mạng xã hội… Luật Lao động trong CMCN 4.0 ghi nhận ở các nội dung quan hệ pháp luật lao động “từ xa” và “xuyên biên giới”.
Hình 1. Tác động của CMCN 4.0
(Nguồn: Báo cáo “Cách mạng công nghiệp 4.0”. Bộ Khoa học công nghệ)
Thứ ba, quyền môi trường trong nhóm quyền thế hệ thứ ba.
Vai trò của quyền môi trường đã được khẳng định thông qua Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, chỉ rõ mối quan hệ lớn “Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được bổ sung thêm thành tố: “bảo vệ môi trường”; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2026 tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh và bền vững…; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”[2]. Mục tiêu tại Đại hội XIII của Đảng đề ra là: “Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”[3]. Do vậy, việc tích hợp quyền môi trường trong giảng dạy các học phần luật đầu tư - kinh doanh sẽ góp phần nâng cao nhận thức, ý thức của sinh viên trong mục tiêu chung của đất nước về bảo vệ môi trường, phòng ngừa tác hại của biến đổi khí hậu, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Ví dụ: giảng dạy học phần Luật Doanh nghiệp & Luật Đầu tư thì trách nhiệm xã hội, trách nhiệm thực hiện cam kết môi trường, đánh giá tác động môi trường dự án đầu tư; kỹ quỹ khai thác khoáng sản…cũng là những nội dung tích hợp cần truyền đạt tới sinh viên.
3. Thực tiễn tiếp cận quyền con người trong giảng dạy tại Học viện Chính sách và Phát triển
Là đơn vị đào tạo có chức năng tư vấn, tham mưu và phản biện chính sách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Khoa Luật kinh tế, Học viện Chính sách và Phát triển nhìn nhận quá trình giảng dạy luật đầu tư - kinh doanh cần gắn với phương pháp tiếp cận đánh giá tác động chính sách. Phương pháp này hỗ trợ và hình thành cơ sở rõ ràng nhìn nhận bảo đảm quyền con người trong từng chính sách và pháp luật do Nhà nước đề xuất, xây dựng, thực thi và cả “hậu chính sách”.
Khoản 2 Điều 1 Nghị định 34/2016/NĐ-CP[4]: “Chính sách là định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định” được cấu thành từ 03 yếu tố: (1) Vấn đề thực tiễn cần giải quyết; (2) Định hướng, mục tiêu giải quyết vấn đề và (3) Các giải pháp của nhà nước để giải quyết. Luật ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định 34 xây dựng quy trình xây dựng chính sách gồm 06 bước từ: xây dựng nội dung; đánh giá tác động chính sách; lập hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản QPPL; lấy ý kiến; thẩm định và thông qua. Trong các bước này, đánh giá tác động của chính sách được hiểu là phân tích, dự báo tác động của chính sách đang được xây dựng đối với các nhóm đối tượng khác nhau nhằm lựa chọn giải pháp tối ưu. Thông qua phân tích đặc trưng, mối quan tâm, động cơ, bản chất và mức độ ảnh hưởng của các nhóm tới chính sách, có 04 nhóm đối tượng được xác định bị tác động gồm: (1) Cơ quan nhà nước; (2) Người dân (bị tác động trực tiếp; nhóm yếu thế…); (3) Tổ chức; (4) Đối tượng khác. Hiện nay, theo hướng dẫn của OECD, các loại đánh giá tác động của chính sách kể tới như:
Đánh giá tác động kinh tế: đánh giá trên cơ sở phân tích chi phí và lợi ích đối với một hoặc một số nội dung về sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, môi trường đầu tư kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, cơ cấu phát triển kinh tế của quốc gia/địa phương; chi tiêu công, đầu tư công và các vấn đề liên quan đến kinh tế. Phương pháp đánh giá được sử dụng chủ đạo trong đánh giá tác động là Phân tích Lợi ích - Chi phí. Loại này có thể áp dụng trong giảng dạy các học phần gồm: Luật Doanh nghiệp; Luật Thương mại; Luật Đầu tư; Luật Cạnh tranh; Luật Đấu thầu…
Đánh giá tác động thủ tục hành chính: đánh giá trên cơ sở phân tích, dự báo về sự cần thiết, tính hợp pháp, tính hợp lý và chi phí tuân thủ của thủ tục hành chính để thực hiện chính sách. Loại đánh giá này có thể được sử dụng trong giảng dạy các học phần gồm: Luật Hành chính; Luật Đất đai; Luật Đấu thầu…
Đánh giá tác động xã hội: đánh giá trên cơ sở phân tích, dự báo tác động đối với một hoặc một số nội dung về dân số, việc làm, tài sản, sức khỏe, môi trường, y tế, giáo dục, đi lại, giảm nghèo, giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng, xã hội và các vấn đề khác có liên quan đến xã hội. Học phần có thể sử dụng loại đánh giá tác động xã hội gồm: Luật Bảo vệ quyền lợi NTD; Luật lao động…[5]
Như vậy, lồng ghép đánh giá tác động của chính sách trong giảng dạy các học phần luật đầu tư - kinh doanh góp phần tích hợp nội dung quyền con người trong giảng day. Phương pháp này hiện đang được các giảng viên của Khoa triển khai bước đầu thông qua đề cập phương pháp đánh giá tác động RIA trong nội dung.
4. Kết luận
Tiếp cận quyền con người trong giảng dạy luật đầu tư - kinh doanh mặc dù không phải một chủ đề mới, tuy nhiên, bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay cung cấp cho phương pháp tiếp cận này những “biến mới” làm thay đổi từ nội dung kiến thức; phương pháp truyền đạt tới hướng tiếp cận mới trong giảng dạy. Dựa trên các thành quả cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và đánh giá hiệu quả, hiệu lực trong xây dựng và thực thi chính sách, hoạt động giảng dạy tại Khoa Luật Kinh tế, Học viện Chính sách và Phát triển đã và đang phần nào đóng góp thực hiện mục tiêu truyền tải kiến thức quyền con người tới sinh viên, học viên của Học viện, phần nào đóng góp xây dựng nguồn nhân lực ngành kế hoạch và đầu tư có am hiểu về quyền con người.
TS. Nguyễn Như Hà
Học viện Chính sách và Phát triển
---
Tài liệu tham khảo:
- Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
- Ban chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 214
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 87, 276
- Chính phủ (2016), Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL
- Bộ Tư pháp, USAID (2018), Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ Đánh giá tác động của chính sách, tr.19-37
- Tổ chức Lao động Quốc tế ILO (2018), Tóm tắt chính sách của Việt Nam: CMCN 4.0 tại Việt Nam - Hàm ý đối với thị trường lao động, tr.1-2
[1] Quan điểm của Karel Vasak
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 214
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 87, 276
[4] Chính phủ (2016), Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
[5] Bộ Tư pháp, USAID (2018), Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ Đánh giá tác động của chính sách, tr.19-37