Tóm tắt: Bài viết phân tích một số đạo luật của Singapore về bảo đảm quyền của người cao tuổi trước tác động của già hóa dân số. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kinh nghiệm về hoàn thiện pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền của người cao tuổi trước tác động của già hóa dân số ở Việt Nam.
Từ khóa: Pháp luật Singapore, quyền của người cao tuổi.
1. Khái quát về tình trạng già hóa dân số ở Singapore
Singapore hiện đang phải đối mặt với tình trạng dân số ngày càng già đi, nguyên nhân là do tuổi thọ tăng lên, tỷ lệ sinh giảm. Theo số liệu thống kê đến năm 2017, Singapore có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới, chỉ 0,83 con/phụ nữ; đến năm 2035, ước tính có khoảng 32% người Singapore từ 65 tuổi trở lên1. Mặt khác, số người cao tuổi phụ thuộc vào sự hỗ trợ của gia đình và xã hội cũng vẫn đang tăng lên bởi vì hiện nay, chính phủ Singapore vẫn đặt trách nhiệm ưu tiên chăm sóc người cao tuổi lên các thành viên trong gia đình hơn là sử dụng nhà dưỡng lão. Đây là hệ quả của việc chính phủ Singapore đưa ra một khuôn khổ toàn diện về lão hóa thành công nhằm tìm cách giải quyết ba lĩnh vực chính có ảnh hưởng đến dân số già, cụ thể là tài chính, sự tham gia của người cao tuổi vào thị trường lao động và sức khỏe. Chính sách phát triển này đã diễn ra trong khoảng ba thập kỷ bắt đầu từ năm 1982 đến nay. Một thành phần quan trọng trong bộ máy chính sách giải quyết các vấn đề liên quan đến già hóa dân số đó là thu hút chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, mọi tầng lớp người dân, doanh nghiệp, gia đình và xã hội cùng tiến hành thực hiện, trong đó, chiến lược này đặt gia đình vào trung tâm của khuôn khổ hỗ trợ, chính phủ và cộng đồng có nghĩa vụ hỗ trợ và thúc đẩy việc làm dành cho người cao tuổi. Tuy nhiên, gánh nặng chăm sóc dự kiến sẽ tăng lên theo năm tháng và một câu hỏi đặt ra là mô hình này liệu có bền vững khi đến giai đoạn già hóa dân số với tỷ lệ phần trăm cao hơn?
Cũng theo bảng số liệu nêu trên, năm 2020, cư dân từ 65 tuổi trở lên chiếm 15,2% tổng dân số cư trú tại Singapore và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người dân Singapore từ 65 tuổi trở lên là 30,1% trong tổng số người lao động cao tuổi. Một cuộc khảo sát vào tháng 3 năm 2018 - trong phạm vi 1.214 người - thuộc nhóm tuổi từ 25 tuổi trở lên với câu hỏi “Từ góc độ tài chính, người tham gia khảo sát đã chuẩn bị gì cho tuổi già hoặc nghỉ hưu ở Singapore hay chưa?” đã đưa ra kết quả như sau: 55 % người được hỏi cho rằng họ chưa sẵn sàng về mặt tài chính cho việc nghỉ hưu hoặc về già, trong khi đó, 26% số người được hỏi nói rằng họ đã sẵn sàng về mặt tài chính để nghỉ hưu hoặc về già2. Điều này sẽ dẫn tới càng nhiều người dân đang phải đối mặt với nhu cầu làm việc lâu hơn hoặc có nhu cầu được thuê lại lực lượng lao động sau khi nghỉ hưu để tự trang trải cuộc sống3.
Tiếp đó, Singapore đã và đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể do dân số già ngày càng tăng như tăng trưởng kinh tế giảm, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội, nguy cơ vỡ quỹ lương hưu xã hội... Về tăng trưởng kinh tế, Francis Tan - nhà kinh tế học tại United Overseas Bank Ltd, Singapore nhận định: “Singapore đang phải đối mặt với một trong những thách thức kinh tế và xã hội lớn nhất kể từ thời điểm nước này giành được độc lập. Đó là sự già hóa dân số đang diễn ra ngày càng nhanh hơn, tác động sâu sắc tới lực lượng lao động vốn khá nhỏ bé của đất nước''4. Về chi phí chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội cũng như nguy cơ vỡ quỹ lương hưu xã hội, dân số già đã và đang gây áp lực lên các thiết chế xã hội hiện có. Cụ thể, hệ thống an sinh xã hội của Singapre đã và đang phải chịu áp lực to lớn vì dự kiến sẽ có ít người đóng góp hơn để chi trả cho các phúc lợi hưu trí của một nhóm dân số già đang gia tăng và sống thọ hơn.
Cùng với đó, việc xây dựng các cơ sở chăm sóc y tế ban ngày, ban đêm, dịch vụ chăm sóc tại nhà, các nhà dưỡng lão dành cho người cao tuổi như một nhu cầu cấp thiết cần được phải triển khai trong hệ thống pháp luật cũng như được triển khai trong thực tiễn.
Đây được coi là những nhu cầu cấp thiết để chính phủ Singapore xây dựng hệ thống chính sách pháp luật nhằm bảo đảm quyền của người cao tuổi trước những tác động của già hóa dân số.
2. Các đạo luật của Singapore về bảo đảm quyền của người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số
Trước những thách thức nêu trên, chính phủ Singapore đã kịp thời đưa ra một số đạo luật để bảo đảm quyền của người cao tuổi trước tác động của già hóa dân số.
2.1. Luật về nhà cho người cao tuổi năm 1988, sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Homes for the Aged Act 1988)
Theo đạo luật này, “người cao tuổi” có nghĩa là bất kỳ người nào từ 60 tuổi trở lên (Điều 2) và “nhà cho người cao tuổi” có nghĩa là bất kỳ cơ sở nào được tổ chức, cung cấp chỗ ở nội trú với dịch vụ ăn ở và chăm sóc cá nhân cho 05 người cao tuổi trở lên, bao gồm cả người cao tuổi khuyết tật nhưng không bao gồm việc cung cấp các dịch vụ y tế chữa bệnh, dịch vụ điều dưỡng cho người bệnh, người cao tuổi sắp chết hoặc mắc bệnh nan y (Điều 2). Mặc dù chính phủ Singapore vẫn đặt trách nhiệm ưu tiên chăm sóc người cao tuổi lên các thành viên trong gia đình hơn là việc sử dụng nhà dưỡng lão cho người cao tuổi, song việc sử dụng nhà cho người cao tuổi là một nhu cầu thực tế ở Singapore do tác động của các nhân tố như: cấu trúc gia đình thay đổi (mô hình gia đình truyền thống chuyển sang mô hình gia đình hạt nhân); tác động của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa; chất lượng dịch vụ nhà dưỡng lão ngày càng được nâng cao, và sự thay đổi trong nhận thức xã hội về vấn đề này (không coi hành vi đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão là hành vi bất hiếu mà là nơi người cao tuổi có thể kết bạn, giao lưu và được chăm sóc một cách tốt nhất)...
Để đáp ứng đủ điều kiện là “nhà cho người cao tuổi”, người chủ sở hữu ngôi nhà đó phải thỏa mãn các yêu cầu được cấp phép, đó là:
+ Gửi đơn xin cấp phép theo mẫu lên Tổng giám đốc phụ trách phúc lợi xã hội (sau đây gọi là Tổng giám đốc) và bộ phận giúp việc để xin cấp phép;
+ Không nằm trong trường hợp bị từ chối cấp phép như: chỗ ở, thiết bị, thiết kế liên quan đến ngôi nhà không phù hợp để làm nhà cho người cao tuổi; không cung cấp các dịch vụ hoặc cơ sở vật chất theo yêu cầu hợp lý của người cao tuổi;
+ Người sở hữu ngôi nhà không được cấp phép kinh doanh nhà dành cho người cao tuổi mà vẫn tiến hành sẽ bị coi là phạm tội và sẽ bị kết án phạt tiền không quá 5.000 đô la hoặc phạt tù có thời hạn không quá 2 năm hoặc cả hai (Khoản 1, Điều 4 Luật về nhà cho người cao tuổi).
Mặt khác, giấy phép cũng có thể bị thu hồi trong trường hợp sau: i) Việc xây dựng ngôi nhà có nguy cơ cháy, hoặc các thiết bị chữa cháy sẵn có, hoặc các phương tiện thoát hiểm được cung cấp, hoặc các biện pháp phòng ngừa khác được thực hiện để tránh nguy hiểm do hỏa hoạn, dập lửa hoặc nếu không bảo vệ cư dân khỏi hỏa hoạn, không phù hợp với tiêu chuẩn tối thiểu cần thiết cho nhà ở; tiêu chuẩn chăm sóc dành cho cư dân trong nhà không đạt yêu cầu; ii) Bất kỳ cư dân nào đã bị đối xử tệ bạc hoặc bị bỏ rơi theo cách có thể gây ra đau khổ không cần thiết hoặc bị giữ trong một môi trường gây tổn hại đến sức khỏe tinh thần hoặc thể chất của họ; iii) Tiêu chuẩn chăm sóc dành cho cư dân trong nhà không đạt yêu cầu.
Đạo luật về nhà cho người cao tuổi đồng thời thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát với nội dung như sau:
+ Tổng giám đốc có thể đến thăm và kiểm tra bất kỳ ngôi nhà và cơ sở nào mà Tổng giám đốc nghi ngờ, và có thể kiểm tra bất kỳ thiết bị, máy móc, thiết bị hoặc dụng cụ nào hoặc bất kỳ sách, tài liệu hoặc hồ sơ nào liên quan đến ngôi nhà, và chất vấn bất kỳ người nào được tìm thấy trong nhà hoặc cơ sở về các vấn đề liên quan đến đạo luật này;
+ Bất kỳ người nào cố ý ngăn cản Tổng giám đốc trong việc thực thi quyền hạn sẽ bị coi là hành vi phạm tội và sẽ bị kết án với số tiền phạt không quá 2.000 đô la hoặc tù có thời hạn không quá một năm hoặc cả hai;
+ Đưa ra những yêu cầu chỉ đạo người được cấp phép của một gia đình lắp đặt hoặc thay thế các thiết bị, thiết bị, dụng cụ đảm bảo an toàn cho người cao tuổi;
+ Yêu cầu người được cấp phép cung cấp thông tin liên quan đến nhà ở cho người cao tuổi, nếu cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây hiểu lầm sẽ bị phạt tối đa là 2.000 đô la5.
2.2. Luật Duy trì quan hệ cha mẹ năm 1995, sửa đổi, bổ sung 1996 (Maintenance of Parents Act 1995)
Đây là đạo luật quy định trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ bởi con cái của họ. Luật này quy định rằng bất kỳ công dân Singapore nào, từ 60 tuổi trở lên, không thể tự chăm sóc bản thân một cách đầy đủ, đều có quyền yêu cầu con cái của họ phụng dưỡng, theo hình thức thanh toán một lần hoặc trợ cấp hàng tháng. Người thân hoặc người chăm sóc có thể thay mặt cha mẹ nộp đơn khởi kiện ra tòa với sự đồng ý của cha mẹ. Cụ thể, tại Điều 3 Luật này quy định: “Bất kỳ người nào cư trú tại Singapore từ 60 tuổi trở lên và không có khả năng duy trì bản thân đầy đủ hoặc bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào với tư cách là đại diện ủy quyền đều có thể nộp đơn lên Tòa án Phụng dưỡng cha mẹ để yêu cầu một hoặc nhiều con trả cho người đó một khoản trợ cấp hàng tháng hoặc bất kỳ khoản thanh toán định kỳ nào khác hoặc một lần để duy trì hoạt động của người đó”6. Luật này cũng áp dụng với một số trường hợp, nếu người dưới 60 tuổi nhưng có những căn cứ cho rằng người này đang bị suy nhược về tinh thần hoặc thể chất khiến họ không thể duy trì hoặc khó khăn trong việc duy trì cuộc sống của bản thân hoặc có bất kỳ lý do đặc biệt nào khác. Lý do ra đời của đạo luật này là nhằm tạo ra cơ sở pháp lý bảo vệ các bậc cha mẹ nghèo khó bị bỏ rơi mà không có sự hỗ trợ nào khác. Đạo luật này có một số nội dung quan trọng sau đây:
Một là, quy định về uỷ viên bảo dưỡng cha mẹ.
Tại Điều 12 của Luật này quy định: “Bộ trưởng có thể bổ nhiệm một Ủy viên bảo dưỡng cha mẹ và một số lượng Phó ủy viên và Trợ lý ủy viên phụ trách việc phụng dưỡng cha mẹ”7 là người thay mặt cho người nộp đơn từ 60 tuổi trở lên (đại diện theo pháp luật cho người nộp đơn), trở thành trung gian hòa giải cho vụ việc, theo các thủ tục tố tụng hoặc bất cứ kháng cáo nào theo đạo luật này hoặc hỗ trợ các biện pháp cần thiết cho người nộp đơn. Ví dụ: giới thiệu người nộp đơn đến chính phủ hoặc bất kỳ cơ quan nào để nhận sự hỗ trợ. Như vậy, Ủy viên bảo dưỡng cha mẹ (do Bộ Phát triển gia đình và xã hội quản lý)8 đóng một vai trò như một trợ giúp pháp lý viên hướng dẫn người cao tuổi những thủ tục pháp lý cần thiết, đồng thời, chủ thể này đóng vai trò là hoà giải viên nhằm giúp cho các bên đạt tới thỏa thuận chung, tránh những mâu thuẫn không cần thiết và hạn chế những kiện cáo liên quan đến cha mẹ và con cái. Trong trường hợp hai bên không đạt được thỏa thuận, ủy viên sẽ có nhiệm vụ hỗ trợ các bên liên quan đến các thủ tục tố tụng hoặc kháng cáo.
Hai là, về cơ cấu tổ chức của Tòa án Bảo dưỡng cha mẹ.
Cơ cấu Tòa án Bảo dưỡng cha mẹ theo Điều 13 của đạo luật này bao gồm 1 Chủ tịch, tối đa 4 Phó Chủ tịch, tối đa 2 thành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và sẽ được công bố trên công báo9. Nhiệm vụ của Tòa án sẽ giải quyết tranh chấp giữa người nộp đơn và người bị kiện thông qua lệnh bảo dưỡng hoặc từ chối lệnh bảo dưỡng dành cho người nộp đơn. Tòa án có nghĩa vụ đưa ra các quyết định sau khi tiếp nhận đơn của người nộp đơn:
Thứ nhất, lệnh bảo dưỡng cha mẹ.
Lệnh bảo dưỡng cha mẹ được hiểu là lệnh của Tòa án đối với bị đơn (con cái, người thân trong gia đình của người nộp đơn) yêu cầu bị đơn cung cấp một khoản trợ cấp cho người nộp đơn (cha mẹ của bị đơn), khoản trợ cấp này có thể thanh toán một lần hoặc trợ cấp hàng tháng hoặc thanh toán định kỳ, sau khi Tòa án xem xét khả năng duy trì bản thân của người nộp đơn, khả năng tài chính của bị đơn. Cụ thể, khi Tòa án nhận được yêu cầu bảo dưỡng vì lợi ích của người nộp đơn, Tòa án sẽ xem xét tất cả những vấn đề sau:
a) Nhu cầu tài chính của người nộp đơn, có tính đến chi phí hợp lý cho nhà ở và chi phí y tế;
b) Người nộp đơn không thể, mặc dù đã cố gắng từ phía mình, để duy trì bản thân thông qua công việc hoặc từ tài sản của mình hoặc từ bất kỳ nguồn nào khác;
c) Bất kỳ khuyết tật nào về thể chất hoặc tinh thần của người nộp đơn;
d) Thu nhập, khả năng kiếm tiền, tài sản và các nguồn tài chính khác của bị đơn;
e) Các chi phí mà bị đơn phải chịu trong việc hỗ trợ vợ/chồng hoặc con cái của mình;
f) Những đóng góp và điều khoản, cho dù là tài chính hay cách khác, mà bị đơn đã thực hiện để duy trì người nộp đơn10.
Khi nhận thấy yêu cầu của người nộp đơn là chính đáng Tòa án sẽ ban hành Lệnh bảo dưỡng. Lệnh bảo dưỡng có thể quy định việc thanh toán một lần, hoặc trợ cấp hàng tháng hoặc thanh toán định kỳ.
Thứ hai, từ chối lệnh bảo dưỡng.
Tòa án Bảo dưỡng cha mẹ có thể đưa ra lệnh từ chối bảo dưỡng trong trường hợp xét thấy bị đơn không có khả năng cung cấp bảo dưỡng cho người nộp đơn hoặc người nộp đơn vẫn có đủ chi phí để cung cấp được những chi phí tối thiểu cho cuộc sống hoặc bị đơn cung cấp chứng cứ cho Tòa án chứng minh rằng người nộp đơn đã bỏ rơi, lạm dụng hoặc bỏ mặc người bị đơn, thì Tòa án có thể bác bỏ đơn hoặc giảm số tiền theo yêu cầu ban đầu của nguyên đơn.
2.3. Đạo luật về người trưởng thành dễ bị tổn thương năm 2018 (Vulnerable Adults Act 2018)
Theo đạo luật này, người lớn dễ bị tổn thương là bất kỳ cá nhân nào đáp ứng tất cả các tiêu chí sau: a) Đủ 18 tuổi trở lên; b) Bị khuyết tật hoặc mất khả năng lao động về tâm thần hoặc thể chất; c) Không có khả năng tự bảo vệ mình khỏi bị lạm dụng, bỏ mặc hoặc tự bỏ mặc bản thân. Còn người cao tuổi dễ bị tổn thương là bất kỳ cá nhân nào từ 60 tuổi trở lên, bị khuyết tật hoặc mất khả năng lao động, mà không có khả năng tự bảo vệ mình khỏi bị lạm dụng, bỏ mặc từ người thân, nhân viên y tế hoặc tự bỏ mặc bản thân. Bên cạnh đó, đạo luật cũng quy định về một số hành vi phải chịu chế tài của pháp luật, như: hành vi lạm dụng, hành vi bỏ mặc.
Trong trường hợp người trưởng thành dễ bị tổn thương yêu cầu bảo vệ khỏi lạm dụng, bỏ mặc hoặc tự bỏ mặc thì có thể liên hệ Đường dây trợ giúp chống bạo lực quốc gia (NAVH), hoặc nếu có nguy hiểm sắp xảy ra đối với tính mạng và sự an toàn có thể gọi cảnh sát, hoặc đến Trung tâm hoặc Trạm cảnh sát khu vực gần nhất để được giúp đỡ. Mặt khác, theo Điều 14 của đạo luật này, người trưởng thành dễ bị tổn thương và gia đình/cộng đồng có thể nộp đơn xin các lệnh sau của Tòa án (gọi chung là "Lệnh bảo vệ"): i) Lệnh cấm thủ phạm tiếp tục lạm dụng người trưởng thành dễ bị tổn thương; ii) Lệnh cấm thủ phạm tiếp tục vào nhà của người trưởng thành dễ bị tổn thương; iii) Lệnh cấm thủ phạm tiếp tục đi vào hoặc ở lại một khu vực cụ thể mà người trưởng thành dễ bị tổn thương thường xuyên lui tới trong một thời gian nhất định; iv) Lệnh cấm thủ phạm tiếp tục giao tiếp với hoặc đến thăm người trưởng thành dễ bị tổn thương11.
2.4. Đạo luật hưu trí và việc làm lại năm 1993, sửa đổi, bổ sung 2012 (Retirement and Re-employment Act)
Đây là đạo luật quy định tuổi nghỉ hưu tối thiểu cho người lao động và việc tái sử dụng việc làm dành cho người đã về hưu. Luật này ghi nhận tuổi nghỉ hưu của người lao động không được dưới 62 tuổi hoặc độ tuổi khác, tối đa là 67 tuổi (Điều 4). Bên cạnh đó, người sử dụng lao động không được phép sa thải bất kỳ nhân viên nào dựa trên độ tuổi của nhân viên, ngược lại, phải có nghĩa vụ cung cấp việc làm lại cho những nhân viên đủ điều kiện từ 62 đến 67 tuổi với một số điều kiện theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp người lao động cao tuổi đủ điều kiện để ở lại làm việc nhưng người sử dụng lao động không thể cung cấp cho người đó một vị trí, thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm chuyển nghĩa vụ làm việc lại cho chủ lao động khác với sự đồng ý của người lao động cao tuổi, hoặc trả cho họ một khoản thanh toán hỗ trợ việc làm để người này có thời gian tìm kiếm công việc thay thế, khoản thanh toán một lần tương đương với 3,5 tháng lương, tối thiểu là $ 5,500 và tối đa là $ 13,00012.
Một trong những điểm tiến bộ nổi bật của pháp luật Singapore đó là các quy định về Tín dụng việc làm đặc biệt (SEC), Khoản bù đắp chuyển đổi CPF (COT) và Cho phép Tín dụng việc làm (EEC). Đây là một số chính sách pháp luật tăng vị thế của người lao động cao tuổi vào trong chính sách việc làm, cũng như hỗ trợ được lợi ích cho người sử dụng lao động. Cụ thể, SEC quy định, trong trường hợp người sử dụng lao động tự nguyện thuê lại người lao động từ 55 tuổi trở lên, họ sẽ nhận được khoản bù đắp bổ sung lên đến 3% - 8% tiền lương hàng tháng của người lao động. Chính sách này sẽ khuyến khích người sử dụng lao động tự nguyện sử dụng lại những người lao động lớn tuổi từ 55 tuổi trở lên13. Trong khi đó, CPF (COT) quy định một khoản tiết kiệm toàn diện và kế hoạch lương hưu bắt buộc đối với lao động Singapore để trả cho người lao động khi nghỉ hưu, chăm sóc sức khỏe và nhu cầu nhà ở tại Singapore. Trong trường hợp này, khi người sử dụng lao động tiếp tục sử dụng người lao động cao tuổi có nghĩa là quỹ này tăng lên, vì vậy, Chính phủ sẽ cung cấp cho người sử dụng lao động một khoản lương chuyển đổi tương đương với 50% mức tăng tỷ lệ đóng góp CPF của người sử dụng lao động khi sử dụng người lao động từ 55 đến 70 tuổi. Còn EEC hỗ trợ việc làm dành cho người khuyết tật từ 13 tuổi trở lên và có thu nhập dưới 4000 đô la mỗi tháng, có hiệu lực trong 5 năm từ 2021 đến 2025 và sẽ có những điều chỉnh cần thiết sau khi hết hiệu lực. Tổ chức này cung cấp mức bù đắp lương cho người sử dụng lao động lên tới 20% thu nhập hàng tháng của nhân viên, giới hạn ở mức tối đa 400 đô la mỗi tháng cho mỗi nhân viên. Ngoài ra, người sử dụng lao động thuê nhân viên người Singapore là người khuyết tật không làm việc ít nhất sáu tháng sẽ được bù thêm 10% lương, giới hạn 200 đô la mỗi tháng cho mỗi nhân viên trong 6 tháng đầu tiên làm việc.
Ảnh minh họa. Nguồn: quanlynhanuoc.vn
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật của Singapore về bảo đảm quyền của người cao tuổi, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, xây dựng nghị định duy trì sự phụng dưỡng đối với cha mẹ.
Nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ không chỉ là nghĩa vụ đạo đức mà còn là nghĩa vụ mang tính pháp lý, được ghi nhận tại khoản 2, Điều 71, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”14.
Pháp luật hiện hành mới chỉ đưa ra hành vi cấu thành tội: “Ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” tại Điều 185, Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017): “1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần; b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu; b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo”.
Trong trường hợp khác, nếu hành vi cấu thành tội “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe” tại điểm d, khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với nội dung: hành vi cố ý ngược đãi, hành hạ dẫn đến việc sức khỏe của ông bà, cha mẹ bị tổn hại dưới 11% thì người phạm tội còn có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Ngoài ra, sẽ phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội với 02 người là cha, mẹ, ông, bà đều có tỉ lệ thương tích trên 61%.
Trường hợp hành vi chưa cấu thành “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” tại Điều 185 hoặc “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe” tại điểm d, khoản 1 Điều 134, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hoặc một số tội khác thì có thể bị xử phạt hành chính theo Điều 50 Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Theo Điều khoản này sẽ phạt tiền từ 1,5 - 02 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây: Đối xử tồi tệ với ông bà, cha mẹ như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân; Bỏ mặc không chăm sóc ông bà, cha mẹ là người cao tuổi, yếu, tàn tật. Ngoài ra, người vi phạm buộc xin lỗi công khai ông bà, cha mẹ khi có yêu cầu.
Tuy nhiên, trong trường hợp con cái không phụng dưỡng cha mẹ thì chế tài đối với những chủ thể này là gì? Hành vi này có vi phạm pháp luật hay không? Một trong những điểm tiến bộ của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sưng 2017) đó là quy định về Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 186 với nội dung: "Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm"15. Việc quy định bổ sung điều luật này tạo ra tính răn đe đối với hành vi vi phạm nhưng thường sẽ không đạt hiệu quả trên thực tế vì các chủ thể đều ngại liên quan đến trách nhiệm hình sự (tức là tính khả thi của quy phạm pháp luật chưa cao).
Khi bàn về tính khả thi của pháp luật, thiết nghĩ vẫn thiếu vắng một chế tài mang tính pháp luật liên quan đến trách nhiệm phụng dưỡng của con cái đối với cha mẹ mà trong trường hợp có yêu cầu chủ động nghĩa vụ phụng dưỡng từ cha mẹ? Việc thừa nhận nội dung này vào trong hệ thống pháp luật có thể sẽ có 2 luồng phản ứng xã hội: một luồng phản ứng lên tiếng lo ngại rằng quy phạm pháp luật này sẽ thay thế nghĩa vụ đạo đức bằng nghĩa vụ pháp lý và mở rộng khoảng cách giữa cha mẹ và con cái, trong khi đó, nhóm đồng tình với quan điểm trách nhiệm phụng dưỡng của con cái đối với cha mẹ cần đưa vào trong hệ thống pháp luật lại cho rằng mặc dù số lượng cha mẹ bị bỏ rơi ít nhưng đây lại là một biện pháp bảo vệ xã hội trước tác động của già hóa dân số và chủ nghĩa cá nhân hóa của giới trẻ, đồng thời, bảo vệ ngay tức thì quyền lợi chính đáng cho người cao tuổi.
Trong trường hợp này, thiết nghĩ nên thiết lập một cơ quan hòa giải chuyên giải quyết vụ việc này, cơ quan này có thể là bộ phận trong trình tự giải quyết của Tòa án hay là một cơ quan chuyên biệt nhằm giúp cho các bên đạt tới thỏa thuận. Trong trường hợp cả 2 bên không đạt tới thỏa thuận sẽ gửi đơn lên Tòa án và khi Tòa án tiếp nhận yêu cầu này, Tòa án có thể xem xét và đưa ra một lệnh yêu cầu con cái phụng dưỡng cha mẹ hoặc lệnh từ chối yêu cầu con cái phụng dưỡng cha mẹ dựa vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của vụ việc. Có thể thấy rằng, lệnh phụng dưỡng cha mẹ từ tòa án là cần thiết và một nghĩa vụ pháp luật liên quan đến thủ tục chuyển khoản chu cấp đến tài khoản người cao tuổi và Tòa án đóng vai trò là khâu trung gian để thanh quyết toán, chuyển khoản là cần thiết trong xã hội hiện đại ngày nay.
Thứ hai, đối với tình trạng bị bạo lực thường xuyên xảy ra đối với người cao tuổi, cần phải xây dựng Nghị định phòng, chống bạo lực đối với người cao tuổi.
Mục đích của Nghị định này đó là nhằm chấm dứt tình trạng bạo lực đối với người cao tuổi. Cụ thể, trong nghị định này có thể tham khảo một số lệnh cấm trong pháp luật Singapore nhằm đảm bảo sự an toàn cho người cao tuổi, như: Lệnh cấm thủ phạm tiếp tục lạm dụng người cao tuổi; Lệnh cấm thủ phạm vào nhà của người cao tuổi; Lệnh cấm thủ phạm đi vào hoặc ở lại một khu vực cụ thể mà người cao tuổi thường xuyên lui tới trong một thời gian nhất định; và Lệnh cấm thủ phạm giao tiếp với hoặc đến thăm người cao tuổi.
Hơn nữa, trong thực tiễn đã tồn tại đường dây nóng trợ giúp trẻ em bị xâm hại, hoặc phụ nữ và trẻ em bị bạo lực; do vậy, giải pháp đặt ra ở đây là cần thiết lập thêm đường dây nóng để trợ giúp đối với người cao tuổi (tuổi già, sức khỏe yếu, khó đi lại, nguy cơ đột quỵ cao) để có những biện pháp kịp thời bảo vệ ngay tức thì cho nhóm đối tượng này.
Thứ ba, trước tác động già hóa dân số, Việt Nam cần xây dựng Nghị định về hưu trí và đi làm lại dành cho người cao tuổi.
Hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ có quy định về tăng tuổi nghỉ hưu lao động nam (62 tuổi) đến năm 2028, lao động nữ (60 tuổi) đến năm 2035 và có quy định về kéo dài thời gian công tác không quá 5 năm đối với người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Tuy nhiên, trước thách thức già hóa dân số, Chính phủ Việt Nam cần tính đến việc xây dựng Nghị định về hưu trí và đi làm lại trong tương lai. Có một điểm rất tiến bộ trong Luật Singapore mà Chính phủ Việt Nam có thể áp dụng đó là quy định nhằm tăng cường tính chủ động trong mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, mở rộng trên quy mô không chỉ sử dụng người lao động cao tuổi trong cơ quan nhà nước mà còn sử dụng người lao động cao tuổi trong hệ thống công ty, doanh nghiệp tư nhân. Nhằm khích lệ người sử dụng lao động tích cực sử dụng người lao động cao tuổi, Chính phủ Việt Nam cần phải có những hỗ trợ về mặt tài chính cho người sử dụng lao động khi sử dụng người lao động cao tuổi. Cụ thể là, khi người sử dụng lao động tự nguyện thuê lại người lao động từ 55 tuổi trở lên sẽ được nhận một khoản tiền được trích ra từ tiền lương của người lao động cao tuổi hoặc là bảo hiểm xã hội (quỹ lương hưu xã hội) sẽ trích lại một khoản tiền tương xứng cho người sử dụng lao động. Có thể nói đây là một trong những phương thức kích cầu đối với người sử dụng lao động khi họ tự nguyện sử dụng người lao động cao tuổi.
ThS. Nguyễn Phương Nhung
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2021
-----
Tài liệu tham khảo
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Luat-Hon-nhan-va-gia-dinh-2014-238640.aspx
3. Chính phủ (2013), Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình”, Hà Nội.
4. https://www.statista.com/topics/5821/ageing-population-of-singapore/, truy cập ngày 06/7/2021.
5. https://www.statista.com/statistics/1112943/singapore-elderly-share-of-resident-population/, truy cập ngày 06/7/2021.
6.https://www.mom.gov.sg/employment-practices/retirement#:~:text=In%20accordance%20with%20the%20Retirement,citizen%20or%20Singapore%20permanent%20resident., truy cập ngày 16/6/2021.
https://employment.sgenable.sg/contact-us/, truy cập ngày 20/6/2021.
7. https://www.statista.com/statistics/987772/singapore-financial-preparedness-for-old-age/, truy cập ngày 16/6/2021.
8. Homes for the aged Act 1988, (revised edition 2014), https://sso.agc.gov.sg/Act/HAA1988, truy cập ngày 16/6/2021.
9. Act 3, Maitance of parents Act 1995 (revised edition 1996), https://sso.agc.gov.sg/Act/MPA1995
10. Vulnerable adults Act (2018), https://sso.agc.gov.sg/Act/VAA2018, truy cập ngày 16/6/2021.
11.https://www.kas.de/c/document_library/get_file?uuid=b72e170f-151b-7247-ba70-ba0d239d6be1&groupId=252038, truy cập ngày 16/6/2021.
12. Lim, Puay Ling, Maintenance of Parents Act, https://eresources.nlb.gov.sg/infopedia/articles/SIP_1614_2009-11-30.html, truy cập ngày 16/6/2021.