Trong điều kiện hiện nay, cần phải hiện đại hóa tiếp cận nghiên cứu và đào tạo quyền con người theo hướng tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành, tổng thể, tích hợp, bao trùm, toàn diện về quyền con người, gắn kết quyền con người với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên tất cả các phương diện của nó. Tiếp cận văn hóa học đến nghiên cứu và đào tạo quyền con người là một phương diện trong cách tiếp cận nói trên. Bài viết này bước đầu tìm hiểu cách tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành, tổng thể, tích hợp, bao trùm, toàn diện về quyền con người và luận giải cách tiếp cận văn hóa học đến nghiên cứu và đào tạo quyền con người, quyền công dân là một phương diện của cách tiếp cận nói trên.
Ảnh minh họa. Nguồn: hdll.vn
1. Về hiện đại hoá tiếp cận nghiên cứu và đào tạo quyền con người ở nước ta hiện nay
Hiện đại hóa việc nghiên cứu và đào tạo quyền con người, quyền công dân, trước hết, được thể hiện ở việc hình thành quan điểm tiếp cận nghiên cứu mới - quan điểm tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành, tổng thể, tích hợp, bao trùm, toàn diện về quyền con người. Nói đến văn hóa quyền con người là nói đến toàn bộ những hoạt động sáng tạo ra quyền con người và những giá trị quyền con người. Nói đến văn hóa học quyền con người là nói đến toàn bộ hoạt động nghiên cứu sáng tạo ra quyền con người và những giá trị quyền con người. Từ nhận thức như vậy về văn hóa quyền con người, về văn hóa học quyền con người, có thể khẳng định rằng, chính việc hiện đại hoá tiếp cận nghiên cứu và đào tạo về quyền con người là một biểu hiện của văn hóa học quyền con người, làm gia tăng giá trị quyền con người, làm gia tăng việc thụ hưởng giá trị quyền con người.
Hiện đại hoá tiếp cận nghiên cứu và đào tạo về quyền con người, bao gồm ít nhất: i) hiện đại hoá tư duy nghiên cứu và đào tạo về quyền con người; ii) hiện đại hoá lý luận về quyền con người; iii) hiện đại hoá việc xây dựng pháp luật về quyền con người; iv) hiện đại hoá việc thực hiện quyền con người; v) hiện đại hoá việc nghiên cứu và đào tạo quyền con người; vi) hiện đại hoá việc tuyên truyền, giáo dục quyền con người; vii) hiện đại hoá việc tiếp nhận giá trị quyền con người.
Quan điểm tiếp cận mới này phải bao quát hết tất cả các phương diện nhận thức về “hiện thực” quyền con người. Điều đó đòi hỏi phải hình thành và đẩy mạnh tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành, tổng thể, tích hợp, bao trùm, toàn diện về quyền con người, quyền công dân, gắn quyền con người, quyền công dân với nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền dân chủ, nhà nước pháp quyền xã hội, nhà nước pháp quyền đạo đức (nhân văn), theo các định hướng sau đây.
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh hướng nghiên cứu thực định về quyền con người để phát triển lý luận luật học thực định về quyền con người, phục vụ việc giáo dục, đào tạo quyền con người, hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu so sánh về quyền con người, bao gồm ít nhất: i) Nghiên cứu so sánh đương đại về quyền con người giữa các quốc gia, khu vực với nhau; ii) Nghiên cứu so sánh lịch đại về quyền con người trên phương diện thực định ở từng quốc gia, ở từng khu vực; ii) Nghiên cứu so sánh quyền con người trên phương diện văn hoá, xã hội hay nói cách khác là xã hội học so sánh, văn hóa học so sánh về quyền con người.
Thứ ba, nghiên cứu và đào tạo triết học về quyền con người, bao gồm ít nhất:
- Nghiên cứu nền tảng triết học của quyền con người;
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng quyền con người trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, ở từng khu vực, ở từng quốc gia;
- Nghiên cứu các học thuyết khác nhau về quyền con người và hiện thực quyền con người;
- Nghiên cứu mối quan hệ của giá trị quyền con người với các giá trị chính trị - pháp lý khác trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, ở từng khu vực, ở từng quốc gia;
- Nghiên cứu giá trị quyền con người, quyền công dân trong hệ thống các giá trị chung của nhân loại, khu vực, quốc gia - dân tộc;
- Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người: nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm tiếp cận của Hồ Chí Minh về quyền con người, đặc trưng, bản chất, nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người; nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, trước hết sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình phát triển đất nước, đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong bối cảnh mới để phát triển đất nước.
Đây là định hướng nghiên cứu và đào tạo khái quát nhất ở tầm triết lý về quyền con người.
Thứ tư, nghiên cứu và đào tạo xã hội học về quyền con người, tức là nghiên cứu và đào tạo về quyền con người đi ra từ cuộc sống xã hội và được thể hiện trong cuộc sống xã hội như thế nào, bao gồm ít nhất:
- Nghiên cứu tính quyết định xã hội của quyền con người - nghiên cứu cơ sở xã hội, nguồn gốc xã hội, cơ chế xã hội làm xuất hiện, biến đổi quyền con người, quyền cong dân;
- Nghiên cứu cơ chế tác động xã hội của quyền con người, tức là nghiên cứu các kênh tác động của quyền con người, đến đời sống nhà nước, xã hội và sự phát triển xã hội, phát triển con người;
- Nghiên cứu các xu hướng phát triển của quyền con người trên phạm vi toàn cầu, khu vực, quốc gia - dân tộc;
- Nghiên cứu hiệu quả của quyền con người, tức là nghiên cứu các tiêu chí đánh giá, cách thức, quy trình đánh giá kết quả thực hiện quyền con người, mục tiêu của quyền con người, (mục tiêu phát triển con người toàn diện), nghiên cứu sự đo lường hiệu quả của quyền con người trong thực tế;
Đây là hướng nghiên cứu và đào tạo mang tính quy luật, có triển vọng phát triển, nâng việc nghiên cứu và đào tạo quyền con người lên một trình độ mới, giải quyết được nhiều vấn đề thực tiễn về quyền con người.
Thứ năm, nghiên cứu và đào tạo chính sách về quyền con người, bao gồm việc làm sáng tỏ: chính sách pháp luật về quyền con người là một lĩnh vực của chính sách pháp luật quốc gia, hệ quan điểm, mục tiêu, công cụ, phương tiện phát triển quyền con người, định hướng nhiệm vụ và giải pháp phát triển quyền con người, so sánh chính sách phát triển quyền con người của các quốc gia khác nhau và những vấn đề khác.
Thứ sáu, nghiên cứu và đào tạo văn hóa học về quyền con người, bao gồm ít nhất: nghiên cứu quyền con người, quyền công dân với tư cách là một giá trị văn hoá trên tất cả các phương diện của nó, từ lịch sử cho đến đương đại, từ nền văn hóa phương Tây đến nền văn hóa phương Đông, từ lý tưởng đến hoạt động, kết quả... Đây là hướng nghiên cứu sâu sắc, khái quát nhất, mang tính triết lý văn hóa về quyền con người.
2. Về tiếp cận văn hóa học đến nghiên cứu và đào tạo quyền con người
Nói đến văn hóa quyền con người người (hay văn hóa nhân quyền) là nói đến toàn bộ những hoạt động sáng tạo ra quyền con người và những giá trị quyền con người về mặt vật chất và tinh thần của một đất nước, một dân tộc, cộng đồng xã hội loài người về quyền con người.
Dưới dạng khái quát nhất, văn hóa quyền con người biểu hiện trong lý tưởng sống vì quyền con người, trong các quan niệm về quyền con người, trong hoạt động sáng tạo ra quyền con người, trong hoạt động và đấu tranh vì quyền con người, những giá trị quyền con người, trong tổ chức đời sống xã hội và nhà nước dựa trên và vì quyền con người, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ về quyền con người. Văn hóa hoặc văn minh quyền con người là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật về quyền con người và bất kỳ năng lực, thói quen nào khác về quyền con người mà con người có được với tư cách là “một con người pháp luật”, “con người nhân quyền”.
Văn hóa học quyền con người (văn hóa học nhân quyền) là hướng nghiên cứu (hay khoa học) nghiên cứu sự ra đời và phát triển của văn hóa quyền con người (văn hóa nhân quyền) với nội dung quan trọng nhất là nghiên cứu những hoạt động và thành quả hoạt động trong lĩnh vực quyền con người. Văn hóa học quyền con người có hai hướng nghiên cứu cơ bản: nghiên cứu lý thuyết cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Văn hóa học nhân quyền có một trong những nội dung nghiên cứu cơ bản, sâu sắc của mình là nghiên cứu quyền con người ở phương diện lịch sử. Dưới đây bài viết tìm hiểu sâu về vấn đề này và chứng minh: Quyền con người là một giá trị văn hóa mang tính lịch sử.
Luận điểm này đòi hỏi phải nhìn nhận quyền con người với tư cách là một giá trị văn hóa ở phương diện lịch sử, gắn liền với nhà nước, đặc biệt nhà nước pháp quyền, gắn với các điều kiện lịch sử nhất định ở phạm vi một quốc gia, dân tộc, khu vực và toàn bộ thế giới.
a) Văn hóa quyền con người gắn liền với nhà nước, đặc biệt nhà nước pháp quyền, gắn liền với từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội
Toàn bộ lịch sử hình thành và phát triển các quyền con người, tất yếu, ở mức độ này hay ở mức độ khác, đều gắn liền với nhà nước, đặc biệt nhà nước pháp quyền và tương ứng với sự tác động thường xuyên của nhà nước đến các quyền con người. Nhà nước pháp quyền gắn liền chặt chẽ với quyền con người và tác động thường xuyên đến các quyền con người. Quyền con người có mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp với nhà nước, nhất là nhà nước pháp quyền.
Mối liên hệ trực tiếp của quyền con người với nhà nước hiện diện khi các quyền con người xuất hiện và phát triển trong phạm vi của pháp luật thực chứng – pháp luật do nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền của nó ban hành hoặc phê chuẩn. Đó là mối liên hệ rõ ràng và hoàn toàn thấy được của các quyền con người với nhà nước pháp quyền và nhà nước khác.
Mối liên hệ gián tiếp và không phải bao giờ cũng thấy được giữa các quyền của con người và nhà nước được bàn đến khi nói về các quyền tự nhiên, “vĩnh hằng” và không thể bị tước đoạt, thuộc về mỗi người từ khi sinh ra.
Trong thời gian gần đây, quyền con người được quan tâm rất lớn trong sách báo khoa học trong nước và ngoài nước. Quyền con người được xem xét từ những chiều cạnh và trong những phương diện khác nhau. Tuy vậy, để nhận thức một cách sâu sắc nhất quyền con người trong giai đoạn phát triển hiện nay – trong “thời đại toàn cầu hóa” và để xác định một cách chính xác nhất các xu hướng và viễn cảnh phát triển của chúng trong tương lai, cần phải quan tâm nhiều hơn đến việc xem xét các quyền con người, không chỉ ở phương diện pháp lý - hình thức mà còn ở các phương diện nội dung, lịch sử cụ thể, bản chất của chúng. Bởi vì, trong đời sống hiện thực, các quyền con người, như đã rõ, không tồn tại và không thể tồn tại một cách chung chung, không phụ thuộc, không liên quan với cộng đồng xã hội này hay cộng đồng xã hội khác hoặc cá nhân đang sống ở một giai đoạn nhất định về mặt lịch sử. Ở mức độ đầy đủ điều đó cũng liên quan đến các nghĩa vụ pháp lý của các cộng đồng người và cá nhân cụ thể. Các nghĩa vụ pháp lý đó, cũng giống như các quyền con người xuất hiện ở một giai đoạn lịch sử nhất định, được phát triển trong các điều kiện lịch sử cụ thể và sẽ không tồn tại hoặc được chuyển tải và thay bằng nội dung pháp lý và kinh tế - xã hội mới cùng với sự thay đổi của thời đại lịch sử theo tuần tự hoặc ngay cả sự thay đổi chế độ nhà nước và xã hội.
Sự khám phá tính chất lịch sử của các quyền con người là quá trình phức tạp, có dung lượng rất lớn và đòi hỏi phải có nghiên cứu chuyên sâu bằng một chuyên khảo cụ thể. Ở phương diện thực tiễn, trước hết, điều đó có nghĩa là nghiên cứu các quyền con người không chỉ ở giai đoạn ra đời và phát triển ban đầu của chúng mà ở tất cả các giai đoạn phát triển tiếp theo, cho đến hiện nay. Đó là việc xem xét các quyền con người trong sự tương hợp với các điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và các điều kiện khác của cuộc sống nhà nước và xã hội. Cuối cùng, việc làm sáng tỏ các xu hướng và quy luật phát triển quyền con người trong suốt chiều dài tồn tại của nhà nước và xã hội, và ngoài điều đó, việc xác lập các yếu tố chung của chúng và tương ứng tính kế thừa các quyền con người cũng như các đặc điểm đặc trưng của chúng ở các giai đoạn khác nhau của sự tiến triển và phát triển mang tính cách mạng của xã hội và nhà nước, bao gồm cả giai đoạn phát triển hiện nay.
Ngoài những vấn đề nói trên, cũng có nhiều vấn đề khác có quan hệ trực tiếp với việc xem xét các quyền con người ở phương diện lịch sử. Tất cả những vấn đề đó đều rất quan trọng cả từ quan điểm lý luận - phương pháp luận lẫn từ thực tiễn. Cách tiếp cận lịch sử văn hóa về quyền con người và triết học về quyền con người sẽ làm sáng tỏ được những vấn đề nói trên.
b) Quyền con người với tư cách là một giá trị văn hóa có mối quan hệ lẫn nhau với môi trường kinh tế - xã hội, chính trị và môi trường khác của nó, được quy định bởi môi trường đó
Cả lý luận và thực tiễn đã khẳng định luận điểm không thể tranh luận rằng, các thế hệ quyền con người khác nhau phải phù hợp với môi trường lịch sử nhất định. Xuất phát từ luận điểm trên, dưới đây chỉ bàn đến mức độ của sự phù hợp đó.
Ở đây, một mặt, muốn nói đến mức độ của sự phù hợp cũng như khả năng xác định các giới hạn tồn tại và vận động một cách nghiêm khắc về thời gian và không gian của các quyền này hoặc các quyền khác của con người. Và mặt khác, muốn nói đến vấn đề liên quan đến việc cho phép, hoặc ngược lại, không cho phép “ràng buộc” một cách khắt khe quá trình xuất hiện và phát triển các quyền cụ thể của con người chỉ với môi trường kinh tế, chính trị - xã hội và môi trường nhất định khác, về sự cho phép hoặc không cho phép tuyệt đối hóa và linh vật hóa nguyên tắc về sự phù hợp một cách nghiêm khắc của các quyền cụ thể này hay các quyền cụ thể khác với các điều kiện lịch sử cụ thể một cách nghiêm khắc, không loại trừ các quyền con người đương đại.
Khi trả lời những câu hỏi đó, hoàn toàn đúng chỗ, sẽ đặt ra các câu hỏi, các câu trả lời đón trước khác và trước hết các câu hỏi mang tính chất khẳng định dưới dạng, ví dụ: về nguyên tắc, có thể có hay không sự không phù hợp của các quyền này hay các quyền khác đang được xem xét với môi trường lịch sử văn hóa nhất định sinh ra chúng? Có thể có hay không sự tồn tại các quyền, chẳng hạn, các quyền đã xuất hiện trong điều kiện của chế độ nô lệ hoặc của chế độ phong kiến ở trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa (sau tư bản chủ nghĩa) của các quan hệ xã hội, và ngược lại? Chúng ta không được tuyệt đối hóa hay không nguyên tắc về sự phù hợp của các quyền này hay các quyền khác với trình độ phát triển các quan hệ xã hội nhất định một cách nghiêm khắc, chẳng hạn, khi nói rằng, sự lựa chọn một cách nghiêm khắc nhất định các quyền của con người của mình phải phù hợp với từng hình thái kinh tế-xã hội hoặc với từng kiểu văn minh? Hoặc đối với nhà nước pháp quyền, “sự lựa chọn” các quyền con người phù hợp với nhà nước pháp quyền sẽ đồng nghĩa hay không với “sự lựa chọn” các quyền tương ứng, phù hợp với nhà nước không pháp quyền đương đại hay không?
Nghiên cứu cho thấy rằng, các quyền con người đã xuất hiện trong phạm vi của hình thái kinh tế - xã hội tư bản và đã được sinh ra bởi các đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản, giai cấp đấu tranh vì sự cạnh tranh tự do và bình đẳng mang tính hình thức của những người tham gia các quan hệ sản xuất và trao đổi. Các quyền đó đã xuất hiện với tư cách là kết quả của cuộc đấu tranh vì tự do của các giai cấp và dân tộc bị áp bức.
Kết luận đó, về nguyên tắc là đúng, về mặt truyền thống được nói đến trong sách báo về quyền con người, tập trung sự quan tâm đến việc cho rằng, trong phạm vi từng hình thái kinh tế - xã hội, chẳng hạn, trong giới hạn của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chỉ xuất hiện các quyền con người nghiêm khắc nhất định “của mình”.
Tuy vậy, các quyền đó có xuất hiện ở cùng một thời điểm, mà chúng chỉ trong giới hạn của hình thái kinh tế - xã hội đó hay không?
Quá trình xuất hiện của “sự lựa chọn” này hay “sự lựa chọn” khác các quyền con người hàm chứa trong mình quá trình nhận thức và sự hình thành liên tục các quyền đó - đó không phải là quá trình lịch sử cùng một thời điểm mà là quá trình lịch sử rất lâu dài và rất căng thẳng, thường được bắt đầu trong giới hạn một hình thái kinh tế - xã hội và được kết thúc bằng việc ban hành văn bản pháp lý mang tính hình thức ghi nhận chính thức các quyền đó, trong khuôn khổ của hình thái kinh tế - xã hội hoặc các hình thái kinh tế - xã hội khác.
Sự ghi nhận về mặt pháp lý - hình thức các quyền này hay các quyền khác tương quan với hình thái kinh tế - xã hội hoặc với nền văn minh nhất định với tên gọi trong khoa học pháp lý là “sự tiếp nhận” hoặc “sự xuất hiện” các hiện tượng đó, như được hình dung, tất cả chỉ là giai đoạn kết thúc, sự hoàn thiện quá trình hình thành các quyền, nhưng hoàn toàn không phải là toàn bộ quá trình có thể được bắt đầu trong một hình thái hoặc một nền văn minh và kết thúc trong một hình thái hoặc một nền văn minh muộn hơn khác. Hoặc chính theo logic của lý luận về nhà nước pháp quyền, các quyền con người xuất hiện trong nhà nước trước pháp quyền và được phát triển, hoàn thiện trong nhà nước pháp quyền.
Có thể lấy Bộ luật Dân sự nước Pháp năm 1804, thường được gọi là Bộ luật Napoleon, và các quyền tương ứng xuất hiện trên nền tảng của nó làm ví dụ. Điều đã được thừa nhận chung rằng, văn bản pháp lý rất quan trọng này ở ý nghĩa pháp lý – hình thức là kết quả của hình thái kinh tế - xã hội tư bản (chủ nghĩa tư bản ban đầu). Đó là sự thật. Nhưng sự thật cũng là điều rằng, xuất hiện ở ý nghĩa pháp lý - hình thức trong phạm vi của hình thái kinh tế - xã hội tư bản, Bộ luật Napoleon hút vào mình nhiều nguyên tắc và luận điểm và tương ứng cả các quyền đã được hình thành từ trong phạm vi hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và đã được ghi nhận, chẳng hạn, trong các đạo luật 12 Bảng1.
Ở đây không chỉ nói về các quyền thông thường và các luận điểm có ý nghĩa về mặt pháp lý, ví dụ, liên quan đến các quan hệ hợp đồng, cam kết, thừa kế và các quan hệ pháp lý dân sự khác mà còn về các quyền, nguyên tắc và luận điểm có ý nghĩa cơ bản, nền tảng. Đó chính là về sự bình đẳng trước các đạo luật, về tự do ngôn luận, về sự bất khả xâm phạm cá nhân.
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các quyền con người cho thấy rằng, có nhiều quyền con người được hình thành và được ghi nhận về mặt pháp luật trong các phạm vi lịch sử của hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, tiếp theo được tiếp nhận và một lần nữa được ghi nhận về mặt chính thức (dưới dạng “ban hành” mới và nội dung kinh tế - xã hội và chính trị đã được đổi mới) trong giới hạn của các hình thái kinh tế - xã hội tiếp theo. Đó là logic và kế thừa lịch sử của các quyền con người.
Tuy vậy, ở phương diện vấn đề đang được xem xét về ví dụ của những luận điểm được nói đến và đã được ghi nhận về mặt pháp luật quan trọng là chỉ để khẳng định rằng, cho dù tính đúng đắn và tính được lập luận nói chung của luận điểm về sự phù hợp của “sự lựa chọn” này hay của “sự chọn khác” các quyền con người với hình thái kinh tế - xã hội hoặc nền văn minh nhất định thì cũng không được tuyệt đối hóa và hơn thế nữa không được thần thánh hóa sự lựa chọn đó. Một mặt, giữa các quyền con người, và mặt khác, giữa các phạm vi mang tính hình thái kinh tế - xã hội và nền văn minh tương ứng của sự xuất hiện và vận động của các quyền con người không tồn tại mối liện hệ nghiêm khắc. Mối liên hệ đó bao giờ cũng tương đối và thường rất có điều kiện. Mức độ và tính chất của mối liên hệ đó và sự phụ thuộc của các quyền này hay các quyền khác của con người vào môi trường hình thái kinh tế - xã hội và nền văn minh cụ thể trong từng trường hợp cụ thể được xác định bởi các điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó hoàn toàn liên quan cả đến nhà nước trước pháp quyền lẫn nhà nước pháp quyền.
Ngoài ra, khi nói về tính chất tương đối và đôi khi về tính chất có điều kiện của các mối liên hệ và sự phụ thuộc của các quyền của con người vào hình thái kinh tế - xã hội này hay hình thái kinh tế - xã hội khác, quan trọng là không chỉ phải hiểu được môi trường lịch sử giữa các hình thái kinh tế - xã hội mà còn các điều kiện bên trong hình thái kinh tế - xã hội, các điều kiện thường rất mâu thuẫn mà ở đó các quyền này hay các quyền khác của con người xuất hiện và được thực hiện.
Nghiên cứu cho thấy rằng, “nếu theo dõi về mặt lịch sử con đường hình thành các tư tưởng về các quyền con người và nhà nước pháp quyền thì không thể ràng buộc một cách trực tiếp con đường đó với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”, và rằng, chính trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội có thể có nhiều thái độ khác nhau đối với các quyền của con người và nhà nước pháp quyền”2. Các thái độ như vậy đối với các quyền con người không phải là ngẫu nhiên, không có cơ sở kinh tế - xã hội, chính trị và cơ sở khác tương ứng, có mâu thuẫn bên trong mà dựa vào đó các luận điểm, các nguyên tắc có ý nghĩa về mặt pháp lý, cũng như các đạo luật tương ứng.
c) Tính chất lịch sử, sự tương tác lẫn nhau của các quyền thực định và các quyền tự nhiên của con người
Các quyền thực định của con người là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực quyền con người. Nói đến tính chất lịch sử, sự tương tác lẫn nhau của các quyền thực định và các quyền tự nhiên của con người là nói về tính chất, sự tương tác của một giá trị quyền thực định (sản phẩm do con người tạo ra) với quyền tự nhiên với tư cách là một giá trị.
Khi xem xét các quyền con người ở phương diện lịch sử, điều có ý nghĩa quan trọng là không chỉ nói đến tính chất quyết định tương đối của các quyền con người bởi các yếu tố mang tính hình thái kinh tế - xã hội và nền văn minh cụ thể mà còn phải nói đến các yếu tố không kém phần quan trọng khác, chẳng hạn, những yếu tố đề cập đến tính chất lịch sử của mối liên hệ lẫn nhau và sự quyết định lẫn nhau của các quyền thực định và các quyền tự nhiên của con người cả trong nhà nước trước pháp quyền lẫn trong nhà nước pháp quyền.
Khi xem xét những vấn đề về mối liên hệ lẫn nhau và sự tương tác lẫn nhau của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên, về mặt truyền thống, nhiều tác giả xuất phát từ tính nguyên thủy và tính chất không thể bị thay đổi của các quyền tự nhiên của con người (“xuất phát từ tự nhiên” và “thuộc về mỗi người từ khi sinh ra”) và tính hay thay đổi thường xuyên được quyết định bởi những thay đổi thường xuyên diễn ra trong xã hội và nhà nước của các quyền thực chứng.
Ngay từ nữa đầu thế kỷ XIX, R. Oujen viết về vấn đề này rằng, “mọi người gia tăng một cách vô tận các đạo luật của mình để đối phó với các đạo luật của tự nhiên, nhưng mãi mãi không thành công”. Ông lưu ý rằng, “các đạo luật tuyệt vời và tốt lành, ổn định sẽ dẫn đến sự phổ biến mang tính gia tăng thường xuyên các hiểu biết, điều tốt đẹp và hạnh phúc giữa loài người, nếu như chúng sẽ được áp dụng một cách nhất quán trong các điều kiện hoàn toàn phù hợp với chúng”3.
Một mặt, niềm hy vọng của nhà xã hội – người không tưởng người Anh và của nhiều tác giả khác cùng thời với ông vào tính vĩnh hằng và tính không thể bị thay đổi của các đạo luật tự nhiên, và cùng với các đạo luật đó của các quyền tự nhiên, và mặt khác, việc chỉ ra “sự gia tăng vô hạn” và tính hay thay đổi thường xuyên của các đạo luật “thực chứng” được các nhà làm luật của các quốc gia khác nhau ban hành hình thành nên một mô hình về tính chất các mối quan hệ mang tính lịch sử của các quyền thực chứng và các quyền tự nhiên của con người4.
Pháp luật tự nhiên ở đây được xem xét với tư cách là nền tảng tự nhiên, ổn định, được đưa ra một lần và mãi mãi mà dựa vào đó pháp luật thực chứng được hình thành, và theo mức độ phát triển của xã hội và nhà nước, được thay đổi một cách tương ứng.
Vào thời đại của mình, nhà khai sáng người Mỹ T. Pein đã phát hiện ra rằng, pháp luật tự nhiên có trong nền tảng của pháp luật dân sự (thực định). Pháp luật tự nhiên tồn tại trong cá nhân, “tuy nhiên không phải bao giờ cũng được pháp luật dân sự (thực định) sử dụng vì các mục đích cá nhân của nó”. Tác giả giải thích, thực chất là ở chổ, có hai lớp các quyền tự nhiên, lớp thứ nhất được “con người giữ gìn sau khi tham gia vào xã hội”, còn lớp thứ hai là “ các quyền tự nhiên được con người chuyển giao với tư cách là thành viên của xã hội”. Các quyền tự nhiên được con người giữ gìn “thực chất là các quyền mà khả năng thực hiện chúng chỉ được thực thi trong con người cụ thể như chính bản thân quyền. Các quyền tự nhiên không được giữ gìn “thực chất là các quyền mà việc thực hiện các quyền đó không hoàn toàn vì quyền lực của con người cho dù con người vốn có quyền đó từ tự nhiên”5.
Tuy vậy, không tùy thuộc vào việc phân loại các quyền tự nhiên và việc phân chia chúng bằng các dấu hiệu này hay các dấu hiệu khác, bản chất và tính chất của chúng, cho dù có những biến đổi của các tình tiết bên ngoài, theo quan điểm của T. Pein và của nhiều tác giả khác, vẫn không thay đổi. Theo mức độ phát triển của xã hội và nhà nước, chỉ các quyền thực chứng và các mối quan hệ giữa chúng với pháp luật tự nhiên mới có những biến đổi ở phương diện lịch sử, nhưng chính pháp luật tự nhiên đó không có biến đổi.
Khác với mô hình đó, mô hình thống trị về mặt lịch sử của các mối quan hệ của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên và tương ứng của các quyền thực chứng và các quyền tự nhiên, trong khoa học còn phát triển song hành cả mô hình khác, ở chừng mực đáng kể khác với mô hình thứ nhất.
Bản chất của mô hình này thể hiện, thứ nhất, ở chỗ, trong các mối quan hệ lẫn nhau của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên với tư cách là các đại lượng có thể biến đổi, không chỉ tính chất của các quan hệ giữa chúng và pháp luật thực chứng mà còn chính pháp luật tự nhiên với tư cách là cơ sở đạo đức của pháp luật thực chứng cũng được xem xét. Và thứ hai, ở chỗ, khi xem xét quá trình của mối liên hệ lẫn nhau và sự tương tác lẫn nhau của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên, các tác giả xuất phát từ điều cho rằng, giữa chúng không tồn tại mối liên hệ một chiều và tương ứng sự tác động của pháp luật tự nhiên đến pháp luật thực chứng mà có mối liên hệ hai chiều và sự tác động chung cho cả hai bên lẫn nhau6.
Trong cách tiếp cận như vậy đến việc xem xét ở phương diện lịch sử tính chất của các quan hệ giữa pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên, như M. Tjechr lưu ý một cách đúng đắn rằng, các nhà nghiên cứu những vấn đề đó không có “mong muốn biện luận một cách trừu tượng về các quyền tự nhiên, hoặc các quyền của con người đã xuất hiện sớm hơn các đạo luật cụ thể và không phụ thuộc vào chúng”, là điều đặc trưng đối với châu Âu cách mạng”7. Tác giả tóm lược, thật là nghịch lý, nhưng thực tế rằng, các dự định càng to lớn và rộng lớn bao nhiêu trong quan hệ của các quyền tự nhiên thì cuối cùng xác xuất càng mất mát các tự do càng lớn bấy nhiêu”8.
Mô hình quan hệ thứ hai của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên cũng có đặc trưng thể hiện ở chỗ, các biện luận “một cách trừu tượng” mang tính truyền thống về các quyền tự nhiên nói chung với tư cách là các quyền không thể tước đoạt từ con người và các hiện tượng không được thay đổi dần dần “được thay thế” bằng quan niệm khác, mềm dẻo hơn và phản ánh tương xứng hơn hiện thực về các quyền đó.
Các quyền tự nhiên ở đây được xem xét “không phải chung chung”, một cách trừu tượng, như “các quyền được đưa ra một lần và mãi mãi”, các quyền tự nhiên và không phụ thuộc vào thế giới bao quanh của pháp luật mà như các hiện tượng đạo đức được chất đầy bằng nội dung mới của các điều kiện và tình huống cuộc sống liên quan đến cả nhà nước trước pháp quyền lẫn nhà nước pháp quyền và xã hội.
Hoàn toàn đúng khi nhà khoa học người Nga I. L. Petruhin cho rằng, không nên xem các quyền tự nhiên “với tư cách là các quyền vĩnh hằng và không thay đổi”9. Ví dụ, tác giả lưu ý một cách đúng đắn rằng, cái mà chúng ta hiểu về quyền sống “đã không phải là giá trị xã hội trong điều kiện khi sự trả thù bằng máu được áp dụng (giết người theo trật tự để trả thù không bị truy tố, mà ngược lại, được khuyến khích). Trong điều kiện của xã hội nguyên thủy chẳng lẽ tồn tại các giá trị như danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Quyền sở hữu xuất hiện sau khi tước đoạt và phân phối các giá trị vật chất”.
Các tư tưởng bình đẳng và tình anh em không có nền tảng trong chế độ nô lệ và chủ nghĩa phong kiến. Nhà khoa học kết luận, nội dung của các quyền tự nhiên được thay đổi từ thời đại này đến thời đại khác”10.
Ở đây cùng với nội dung ở chừng mực đáng kể cả quan niệm về các quyền tự nhiên cũng được thay đổi. Chẳng hạn, nếu như ở các giai đoạn phát triển ban đầu của xã hội loài người, như E. N. Trubeckoi lưu ý một cách đúng đắn rằng, “nền tảng của pháp luật là trật tự xã hội vĩnh hằng, không thay đổi, trật tự thống trị không chỉ trong các quan hệ của con người mà cả trong toàn bộ chế độ vũ trụ: cùng dãy với các các đạo luật do mọi người sáng tạo nên có cả các đạo luật vĩnh hằng, không thành văn”11, thì ở các giai đoạn muộn hơn của sự phát triển xã hội, pháp luật tự nhiên có tính chất hơi khác một ít, ít nhất khoát hơn trong quan hệ của tính vĩnh hằng và tính không thay đổi của nó.
I. A. Il’in cho rằng, có khó khăn lắm hay không khi không lý tưởng hóa và không tuyệt đối hóa pháp luật tự nhiên theo so sánh với pháp luật thực chứng và cho phép trong tương lai khả năng “vượt qua pháp luật thực chứng” bằng pháp luật tự nhiên, và tác giả không xem pháp luật tự nhiên là hiện tượng tự nhiên không thay đổi nào đó mà thường xuyên gắn sự tiến triển của nó với sự phát triển của pháp luật thực chứng và ý thức pháp luật.
Trong công trình “Về bản chất của ý thức pháp luật”, chẳng hạn, tác giả viết rằng, “sự thừa nhận một cách tự nguyện và sáng tạo pháp luật thực chứng được tiến hành một cách dễ dàng hơn so với tự do, công bằng và quyền tự trị trong các quy phạm pháp luật. Sự tự hoàn thiện pháp luật chính là nhân tố mạnh mẽ trong sự phát triển ý thức pháp luật”12. Và tác giả viết tiếp: “khi nhìn thấy trước viễn cảnh của sự phát triển đó, có thể nói rằng, pháp luật thực chứng sẽ trở thành ít cần thiết hơn theo mức độ phát triển, như chính nó sẽ xích lại gần hơn với tinh thần và ý nghĩa của pháp luật tự nhiên, còn ý thức pháp luật sẽ phát triển, được làm sâu sắc và được củng cố”13.
Tác giả kết luận, hoàn toàn dễ hiểu rằng, “việc khắc phục/vượt qua pháp luật thực chứng không trùng hợp với việc vi phạm trái pháp luật của nó, không trùng hợp với việc bãi bỏ hợp pháp, không trùng hợp với sự phủ định mang tính nguyên tắc của nó. Đó là một quá trình thâm nhập phức tạp của tâm hồn vào pháp luật hoặc sự lĩnh hội pháp luật bằng ý thức và ý chí”14.
Gắn pháp luật tự nhiên với ý thức pháp luật và tương ứng sự phát triển của nó với sự phát triển của ý thức pháp luật, tác giả đã rời rất xa khỏi các tư tưởng “vĩnh hằng” và “không thay đổi” ban đầu của pháp luật tự nhiên. Và khi nghiên cứu pháp luật tự nhiên các tác giả khác cũng đã gắn các quyền tự nhiên của con người không chỉ với tính chất và bản chất tự nhiên của nó mà còn với các hiện tượng xã hội như đạo đức, nhân phẩm, danh dự, phẩm giá và các hiện tượng khác.
Sự xuất hiện các quyền từ khi sinh ra và tính không thể bị tước đoạt của nó, như đã lưu ý một cách đúng đắn trong sách báo khoa học, “chưa thể chứng minh được tính tự nhiên của chúng theo tinh thần của trường phái cổ xưa của pháp luật tự nhiên. Các thuộc tính đó của chúng được lấy ra từ hệ thống các quan hệ xã hội sinh ra chúng, và, với tư cách là hậu quả, từ các quy phạm pháp lý quốc tế và quy phạm pháp luật hiến pháp công nhận chúng”15. Cần phải tiếp nhận pháp luật tự nhiên với tư cách là “một hiện tượng pháp lý - xã hội”16, không tùy thuộc vào việc, nó được xem xét trong phạm vi của nhà nước pháp quyền hoặc nhà nước khác và của xã hội tương ứng hay không.
Trong cách đặt vấn đề như vậy, tất nhiên, hoàn toàn có lý lẽ vững chắc, ở đây muốn nói đến chính sự kiện hiển nhiên rằng, các nền tảng này hay các nền tảng khác – các quyền tự nhiên và không thể tước đoạt dù như thế nào thì, tự bản thân mình, các quyền đó không trở thành các quyền, như một sự kiện “tự nhiên” nào đó mà chúng trở thành các quyền ở trong xã hội, trong hệ thống các quan hệ và các mối liên hệ xã hội của người này với người khác, trong sự xuất hiện tính chất đánh giá hành vi của một người trong quan hệ với người khác17.
Hoàn toàn đúng đắn khi nhà triết học tôn giáo người Pháp Zd. Mariten khẳng định rằng, pháp luật tự nhiên với tư cách là đạo luật bất thành văn, khi tồn tại “do có chính bản chất tự nhiên của con người”, không phải cái gì khác là “sự chỉ dẫn hoặc luận điểm mà trí tuệ con người có thể khám phá ra và tương ứng với sự chỉ dẫn hoặc luận điểm đó ý chí con người cần phải hành động để phù hợp với các mục đích cần thiết của bản chất người”18.
Tuy vậy, ở đây cần phải nói rằng, “sự khám phá của trí tuệ” như thế và sự xuất hiện luận điểm (“sự chỉ dẫn”) mà theo nó “ý chí của con người cần phải hành động”, đặc biệt khi nói về “các luận điểm” – các quyền tự nhiên, như quyền sống, quyền duy trì loài người, quyền có môi trường bao quanh trong lành, quyền bất khả xâm phạm cá nhân và các quyền khác, không phải là hành động tự phát, mang tính tự nhiên “đơn thuần”, tự xuất hiện theo chính mình, tách biệt với các hành động khác tương tự với hành động đó. Mối liên hệ lẫn nhau của con người với môi trường tự nhiên bao quanh nó hoàn toàn làm phát sinh bất kỳ quyền hoặc tự do nào và tự mình không thể dẫn đến “sự khám phá của trí tuệ” và sự xuất hiện “các luận điểm” theo đó “ý chí của con người cần phải hành động”19.
Điều đó chỉ diễn ra khi con người với tư cách là một thực thể tự nhiên lần đầu tiên tiếp xúc với các thực thể khác tương tự với mình, tức là với môi trường xã hội. Chỉ trong môi trường xã hội con người mới bắt đầu nhận thức được chính mình và cùng với điều đó nhận thức được các quyền không thể bị tước đoạt của mình được quyết định bởi môi trường của con người và “thuộc về con người từ khi sinh ra”. Ở bên ngoài bản chất xã hội và môi trường xã hội việc tự ý thức và việc tự nhận thức của con người với tư cách là người có các quyền và nghĩa vụ sẽ bị loại trừ hoàn toàn. Ở nghĩa đó, “pháp luật tự nhiên với tư cách là tổng thể tất cả các quyền chủ thể của con người được thể hiện không chỉ và ngay cả không chỉ như pháp luật bẩm sinh, “tự nhiên”, vĩnh hằng và không thay đổi mà còn là pháp luật được quyết định về mặt xã hội”20.
d) Pháp luật tự nhiên được thay đổi cùng với mức độ phát triển của xã hội, tác động thường xuyên đến pháp luật thực chứng, mặt khác, chịu sự tác động liên tục từ phía pháp luật thực chứng
Khi có được các dấu hiệu nhất định của các hiện tượng xã hội và thể hiện với tư cách “đồng nghĩa của cái cần phải có về mặt đạo đức trong pháp luật”, pháp luật tự nhiên, một mặt, với tư cách là một hiện tượng đạo đức được thay đổi cùng với mức độ phát triển của xã hội, tác động thường xuyên đến pháp luật thực chứng, mặt khác, chịu sự tác động liên tục từ phía pháp luật thực chứng.
Đương nhiên, mức độ và hình thức tác động của pháp luật thực chứng đến pháp luật tự nhiên dưới dạng các quyền bẩm sinh và không thể bị tước đoạt của con người không phải bao giờ cũng giống nhau mà được biến đổi tùy thuộc vào tính chất của thời đại lịch sử này hay thời đại lịch sử khác và tương ứng vào các đặc điểm của pháp luật thực chứng tồn tại trong giới hạn của thời đại đó. Tuy vậy, sự tác động như vậy bao giờ cũng đã có và đang tồn tại và sẽ là thiếu sót nếu không lưu ý hoặc coi thường một cách có ý thức sự tác động đó, trong đó có việc xem xét các vấn đề của nhà nước pháp quyền nói chung và mối tương quan của nó với các quyền của con người nói riêng.
Con đường tác động cơ bản của pháp luật thực chứng đến pháp luật tự nhiên là việc ghi nhận về mặt pháp luật các quyền tự nhiên, bảo đảm các phương diện khác nhau của chúng và bằng cách đó tạo ra các điều kiện cần thiết không chỉ để thực hiện, bảo vệ chúng ở hiện tại mà còn để phát triển và hoàn thiện chúng trong tương lai.
Pháp luật thực chứng, “theo thực chất của mình là toan tính mang tính tổ chức diễn đạt pháp luật tự nhiên”21. Pháp luật tự nhiên “cần phải được khám phá ra một cách chân thật và tương ứng thực hiện các quy luật của tồn tại tinh thần, tuân theo các quy luật đó không chỉ trong việc tổ chức phương thức quy định pháp luật mà cả trong nội dung các quy tắc của nó”22.
Cho dù trong lịch sử các mối liên hệ và sự tương tác lẫn nhau của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên có những mâu thuẫn rất sâu sắc và các yếu tố xung đột rất căng thẳng, không xích lại gần nhau mà ngược lại làm chúng xa cách nhau, nhưng cũng có xu hướng chung diễn ra ngày càng rõ ràng hơn trong các mối quan hệ lẫn nhau của chúng và theo mức độ phát triển của xã hội và nhà nước, mối quan hệ như vậy giữa chúng không những không yếu đi mà ngày càng được mở rộng và được làm sâu sắc hơn.
Điều đó được thể hiện một cách cụ thể, một mặt, việc ghi nhận cụ thể, chi tiết hơn các quyền tự nhiên đã được thừa nhận chung, và mặt khác, ở việc mở rộng danh mục các quyền tự nhiên đã được ghi nhận về mặt pháp luật, chẳng hạn, các quyền về bất khả xâm phạm cá nhân, an ninh, bảo vệ sức khỏe, phẩm giá của cá nhân và các quyền khác.
Các quyền tự nhiên trong suốt chiều dài lịch sử phát triển và tương tác của mình với pháp luật thực chứng không chỉ thể hiện với tư cách là các quyền riêng biệt, biệt lập tương đối với nhau mà còn là các hiện tượng đạo đức gắn liền chặt chẽ với nhau và bổ sung lẫn nhau. Từ ban đầu thể hiện dưới dạng các quyền chủ thể thuộc về mỗi người, theo bản chất và tính chất của mình, các quyền tự nhiên, các quyền chủ thể theo mức độ phát triển xã hội và sự chuyển tải chúng với sự trợ giúp của pháp luật thực chứng có được tính chất hệ thống và cùng với điều đó có được tính chất khách quan.
Xu hướng đó, cũng như nhiều xu hướng khác, được hiện ra trong suốt chiều dài toàn bộ lịch sử của mối liên hệ lẫn nhau và sự tương tác lẫn nhau của pháp luật thực chứng và pháp luật tự nhiên. Trong thời đại ngày nay, xu hướng đó được thể hiện ngày càng rõ hơn, và tất nhiên, cần phải cân nhắc một cách đầy đủ trong quá trình tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền.
Tiếp theo việc nghiên cứu quyền con người, quyền công dân với tư cách là một giá trị văn hóa mang tính lịch sử, cần triển khai việc nghiên cứu sự tiến triển các quan điểm về quyền con người trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng với tư cách là một trong những nội dung nghiên cứu của văn hóa học quyền con người.
GS.TS. Võ Khánh Vinh
Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
TS. Đỗ Thị Kim Định
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 6 (35) - 2023
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.377 (bản tiếng Nga).
(2) E.A. Lukasheva chủ biên, Quyền con người, Mátxcơva 1999, tr. 28 (bản tiếng Nga).
(3) Trích theo Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.381 (bản tiếng Nga).
(4) Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.381 (bản tiếng Nga).
(5) Trích theo Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.381-382 (bản tiếng Nga).
(6) Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.382 (bản tiếng Nga).
(7) Tjechr M. Nghệ thuật quản lý nhà nước, Mátxcơva 2003, tr. 284 (bản tiếng Nga).
(8) Tlđd.
(9) Petruhin I. L., Con người là một giá trị pháp lý – xã hội//Nhà nước và pháp luật, 1999, số 10, tr.90 (bản tiếng Nga).
(10) Tlđd.
(11) Trubeckoi E. N., Bách khoa thư pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr. 46, 47 (bản tiếng Nga).
(12) Il’in I. A., Lý luận pháp luật và nhà nước/chủ biên V. A. Tomsinov Mátxcơva 2003, tr.210 (bản tiếng Nga).
(13) Tlđd.
(14) Tlđd.
(15) Rudinskij F. M., Những vấn đề phương pháp luận của khoa học quyền con người//Pháp luật và quyền con người. Tuyển tập các công trình khoa học, Mátxcơva 2003, quyển 6, tr.21 (bản tiếng Nga).
(16) Rasskazov L. P., Uporov I. V., Các quyền tự nhiên của con người. Tuyển tập các công trình khoa học, Mátxcơva 2001, tr.8 (bản tiếng Nga).
(17) Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.381 – 384 (bản tiếng Nga).
(18) Mariten Zd., Quyền con người và đạo luật tự nhiên//Lịch sử các học thuyết chính trị và pháp luật. Tuyển tập/chủ biên O. Je. Leist, Mátxcơva 2000, tr. 510 (bản tiếng Nga).
(19) Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.385 (bản tiếng Nga).
(20) Marchenko M.N., Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự (nghiên cứu lý luận - pháp luật), Mátxcơva, 2015, tr.385 (bản tiếng Nga).
(21) Il’in I. A., Lý luận pháp luật và nhà nước/chủ biên V. A. Tomsinov Mátxcơva 2003, tr.214 (bản tiếng Nga).
(22) Tlđd, Tr.209.