Giáo dục quyền con người trong các trường đại học là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhận thức và ý thức trách nhiệm cho sinh viên – những người sẽ trở thành lực lượng nòng cốt của xã hội trong tương lai. Ở Việt Nam, giáo dục quyền con người đã dần trở thành một nội dung được quan tâm và đưa vào chương trình đào tạo tại nhiều cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, giáo dục quyền con người đang đối mặt với không ít thách thức và vấn đề cần giải quyết, từ việc xây dựng nội dung chương trình phù hợp đến phương pháp giảng dạy hiệu quả, cũng như nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của quyền con người.
\
Ảnh minh hoa. Nguồn: baochinhphu.vn
1. Khái niệm giáo dục quyền con người
Quyền con người (QCN) là các quyền tự nhiên thuộc về tất cả mọi người được ghi nhận, bảo đảm bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Cụ thể hơn, có thể hiểu QCN là quyền của tất cả mọi người, là những đòi hỏi xuất phát từ nhân phẩm được chế định trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia và được bảo đảm trong thực tế. Những quyền này bao gồm các quyền dân sự và chính trị như: quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do tôn giáo, tự do lập hội, và các quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự quyết và quyền về sáng tạo văn hoá, quyền bình đẳng, quyền được xét xử công bằng, quyền về sự riêng tư, quyền tham gia đời sống chính trị, quyền kết hôn và lập gia đình); và các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá như: quyền về sức khoẻ, quyền giáo dục, quyền về nhà ở, quyền về bảo trợ xã hội, quyền được an toàn ở nơi làm việc, quyền có đủ lương thực, nước uống và được sống trong môi trường trong lành.
Quyền được giáo dục là một quyền cơ bản của con người thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Cho nên giáo dục QCN được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. “Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người” năm 1948, Điểu 26, khoản 2 đòi hỏi: “Các nhà nước thành viên... công nhận quyền của mọi người đối với giáo dục... giáo dục phải hướng đến sự phát triển đẩy đủ của nhân cách con người và nhân phẩm, và phải tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và các tự do căn bản... giáo dục phải giúp cho tất cả mọi người có thể tham gia một cách hiệu quả vào... thúc đẩy sự hiểu biết, lòng khoan dung và tính hữu nghị giữa các quốc gia, các chủng tộc, sắc tộc hay các nhóm tôn giáo và tăng cường các hoạt động của LHQ trong việc duy trì hòa bình”.
Hội nghị quốc tế về giáo dục QCN lần đầu tiên được UNESCO tổ chức tại Iran năm 1978 đã tập trung hướng đến mục đích: “Mỗi cá nhân cần nhận biết được quyền của mình, đồng thời tôn trọng quyền của người khác”. Hội nghị quốc tế về giáo dục QCN lần thứ hai ở Viên, Áo với “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993” thì nhấn mạnh nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia trong việc bảo đảm tăng cường sự tôn trọng QCN và các tự do cơ bản của con người. Hội nghị hướng đến việc coi giáo dục, đào tạo và thông tin chung về QCN là rất quan trọng nhằm hướng đến các quan hệ hài hòa trong cộng đồng, thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau trên tinh thần khoan dung và hòa bình. Cùng với đó, trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm mục đích của giáo dục là nhằm tăng cường sự tôn trọng QCN và các tự do cơ bản.
Ông Shulamith Koenig, người đề xuất “Thập kỷ giáo dục QCN” của LHQ, đã định nghĩa giáo dục QCN là “để mọi người biết về nhân quyền và đưa ra đòi hỏi về nhân quyền”. Bà Nancy Flowers, trong cuốn sách mang tên “Hướng dẫn giáo dục nhân quyền” xuất bản tại Đại học Minnesota năm 2000, quan niệm giáo dục QCN “là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của QCN nhằm thúc đẩy công bằng, khoan dung, nhân phẩm cũng như tôn trọng các quyền và nhân phẩm của người khác”[1].
“Tuyên ngôn của LHQ về giáo dục và đào tạo quyền con người” năm 2001, quan niệm: “Giáo giáo dục và đào tạo QCN gồm tất cả các hoạt động giáo dục, rèn luyện, thông tin, nâng cao nhận thức và học tập nhằm thúc đẩy sự tôn trọng phổ quát và thực hiện tất cả các QCN và tự do căn bản; từ đó góp phần vào việc ngăn chặn các vi phạm nhân quyền và xâm hại thông qua việc cung cấp cho con người các kiến thức, kỹ năng và sự hiểu biết cũng như sự phát triển thái độ, hành vi và trao quyền cho họ để tiếp tục đóng góp vào việc xây dựng, thúc đẩy một nền văn hóa phổ quát về QCN”[2]. Để thực hiện yêu cầu này, những người hoạt động cần có kiến thức, kỹ năng và sự hiểu biết về nhân quyền và cơ hội để trao đổi, phản ánh và phát triển thái độ và hành vi liên quan đến QCN. Đó là một quá trình học tập, rèn luyện suốt đời có liên quan đến tất cả các nhóm tuổi và sẽ diễn ra tại tất cả các tầng lớp xã hội; và gồm tất cả các hình thức học tập, giáo dục, đào tạo từ lúc còn trẻ nhỏ cho tới các lĩnh vực đào tạo và học hỏi thêm của người lớn trong bối cảnh chính thức hoặc không chính thức, trong lãnh vực công cộng cũng như tư nhân.
Giáo dục QCN bao gồm các mức độ kiến thức, ý thức, hành động và do đó có thể phân thành: “Giáo dục về - thông qua - vì QCN “. Giáo dục về QCN là “cung cấp các kiến thức và hiểu biết về các tiêu chuẩn và nguyên tắc của QCN và các giá trị cơ bản và cơ chế bảo vệ chúng”. Giáo dục thông qua QCN là “hình thức học tập và giảng dạy, trong đó tôn trọng quyền lợi của cả giáo viên và người học”. Giáo dục vì QCN “là để khuyến khích con người nhận thức và thực hiện các quyền của mình, tôn trọng quyền của người khác và bảo vệ chúng”.
Ở Việt Nam, GS.TS. Võ Khánh Vinh các đồng sự cho rằng, “giáo dục QCN với nội dung toàn diện không thiên lệch vào một số quyền này, bỏ qua một số quyền khác; giáo dục tính chủ thể của các chủ thể mang quyền chứ không dừng ở giáo dục tính khoan dung, lòng nhân đạo đối với những chủ thể bị vi phạm quyền.
Giám sát giáo dục QCN đã được chế độ hóa phải được coi là nhiệm vụ của mọi người dân, của xã hội dân sự”[3].
Nhìn chung giáo dục QCN là những hoạt động đào tạo, tập huấn, phổ biến và thông tin về QCN để trao quyền học tập cho người học và thực hiện trách nhiệm của giáo viên đối với việc bảo đảm quyền học tập của người học nhằm: (i) Thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người trong giáo dục; (ii) Phát triển phẩm chất, năng lực, kỹ năng tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác; (iii) Thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ trong giáo dục; (iv) Tạo điều kiện cho người học tham gia một cách bình đẳng, hiệu quả vào các hoạt động giáo dục; (v) hội nhập với các hoạt động của LHQ trong giáo dục QCN ở trong nước và trên thế giới.
2. Một số vấn đề cần lưu ý khi đưa nội dung quyền con người vào chương trình đại học
Việc đưa nội dung quyền con người vào giảng dạy trong chương trình ở bậc đại học là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần lồng ghép/tích hợp nội dung quyền con người một cách hợp lý trong chương trình giáo dục đại học. Trong đó có tính tới đưa nội dung quyền con người vào giảng dạy ở tất cả các cơ sở giáo dục đại học thông qua việc sửa đổi giáo trình pháp luật hoặc pháp luật đại cương để giảng dạy cho sinh viên các trường đại học không thuộc khối ngành Luật, Hành chính, Nội chính; tích hợp/lồng ghép quyền con người vào các môn học chuyên ngành Luật thuộc khối ngành Luật, Hành chính, Nội chính; đồng thời xây dựng môn học độc lập về quyền con người và giáo trình dùng chung cho các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng thuộc khối ngành Luật, Hành chính, Nội chính.
Thứ hai, biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể. Hiện nay, chưa có giáo trình chung, thống nhất; chưa có đầy đủ tài liệu cho việc giáo dục quyền con người theo từng nhóm đối tượng. Vì thế, cần phải xây dựng các tài liệu giáo dục quyền con người cho từng nhóm chủ thể, từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, trên cơ sở tính hệ thống, tính liên thông của tài liệu và đảm bảo gắn kết cả nội dung giáo dục quyền con người và nội dung giáo dục quyền công dân.
Thứ ba, đào tạo đội ngũ cốt cán, giảng viên. Đây là điều kiện bắt buộc để có thể đưa nội dung giáo dục về quyền con người vào giảng dạy trong chương trình giáo dục đại học. Trước mắt, có thể đào tạo giảng viên từ đội ngũ giảng viên đang dạy các môn có liên quan và đây sẽ là những giảng viên cho cả môn học này chứ không chỉ tạm thời, kiêm nhiệm. Đội ngũ giảng viên này phải được đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học trong hệ thống giáo dục nhà nước. Giáo dục về quyền con người có mối quan hệ mật thiết với giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, do đó, về chiến lược có thể đào tạo đội ngũ giảng viên từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các trường luật, chính trị.
Thứ tư, hình thức, phương pháp giảng dạy nội dung quyền con người và kiểm tra đánh giá ở nội dung này là một vấn đề có tính đặc thù, do đó cần được triển khai dạy mẫu, tập huấn…. Xây dựng các hình thức, phương pháp giáo dục riêng, thích hợp với điều kiện, khả năng của từng đối tượng sinh viên, giúp việc truyền tải nội dung giáo dục một cách sinh động, phù hợp, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc sống.
3. Một số giải pháp tăng cường giáo dục quyền trong các trường đại học
Một là, cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục quyền con người ở nước ta.
Giáo dục quyền con người giữ vai trò vô cùng quan trọng trong mục tiêu bảo vệ, thúc đẩy quyền con người phát triển và có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, có một thực tế là ở nước ta vấn đề nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục quyền con người còn nhiều hạn chế và sự tồn tại của nó trong đời sống xã hội chưa tương xứng. Do đó, muốn xây dựng được nền giáo dục quyền con người phát triển tương xứng với ý nghĩa của nó cần phải thay đổi nhận thức về giáo dục nhân quyền, theo đó, cần tiếp cận giáo dục quyền con người theo hướng quyền con người vì mục tiêu phát triển bền vững, giáo dục quyền con người để hướng đến mục tiêu tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người từ mọi phía và mọi đối tượng trong xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần có sự nỗ lực từ nhiều phía, trong đó quan trọng nhất là nhiệm vụ của Nhà nước, Nhà nước phải tuân thủ nghĩa vụ quốc gia về giáo dục nhân quyền ghi nhận trong các công ước mà Việt Nam đã tham gia, ký kết.
Khuyến khích tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về quyền con người, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người cũng là một hình thức hấp dẫn, có thể đạt hiệu quả cao. Ưu điểm của biện pháp này là có thể được áp dụng một cách đa dạng cho nhiều đối tượng khác nhau (không chỉ riêng với nhóm học sinh/sinh viên tham gia các cuộc thi trong khuôn khổ của cơ sở đào tạo mà kể cả các đối tượng như người đi làm, người nghỉ hưu… cũng hoàn toàn tham gia được ở phạm vi rộng); phạm vi đối tượng được giáo dục cũng rất rộng (bao gồm cả người dự thi và người theo dõi cuộc thi), phát huy được tính tích cực, chủ động của đối tượng dự thi và giúp họ nhận thức sâu sắc hơn nội dung quyền con người cần tìm hiểu.
Thứ hai, đổi mới hoạt động giảng dạy quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân, xác định đúng các hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp cho từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, hướng đến xây dựng một nền văn hoá nhân quyền.
Hiện nay ở Việt Nam, các kiến thức về quyền con người còn mang tính lý thuyết và trừu tượng. Chương trình giáo dục quyền con người cần đảm bảo tính hiện đại, ổn định và thống nhất, có sự kế thừa giữa các cấp học. Đối với cấp độ đại học, giáo dục quyền con người đã trở thành một chủ đề được quan tâm chung trong nhiều trường đại học ở Việt Nam nhưng mức độ hướng dẫn, nội dung, phương pháp và cách thức tiếp cận chưa thực sự đồng đều. Các nội dung về quyền con người được lồng ghép vào trong các môn học, nhưng chủ yếu vẫn chỉ được coi là một chủ đề trong phạm vi luật quốc tế, dẫn đến chưa có sự gắn kết thực sự chặt chẽ giữa các môn học với nội dung giáo dục nhân quyền. Ngoài ra, môn học về quyền con người cũng mới chỉ được giảng dạy tại một số trường đại học đào tạo chuyên ngành luật hoặc về mảng xã hội chứ chưa được giảng dạy tại tất cả các ngành học ở các trường đại học/cao đẳng. Vì vậy, cần thiết phải đưa chương trình giáo dục quyền con người vào tất cả các cấp bậc học và tất cả các ngành học (đối với các trường đại học/cao đẳng) để tất cả học sinh/sinh viên đều có thể tiếp cận được các nội dung cơ bản về quyền con người. Khi lồng ghép vấn đề quyền con người vào hệ đào tạo đại học sẽ đảm bảo tính thống nhất, tính liên thông của chương trình; đồng thời cũng đảm bảo tính chủ động, thường xuyên, liên tục, rộng khắp trong cả nước. Tuy nhiên, cũng cần có sự cân nhắc về mức độ phù hợp cũng như phương pháp lồng ghép trong chương trình đào tạo của các trường đại học, đặc biệt với các trường thuộc khối tự nhiên với các môn học cơ sở.
Thứ ba, cần đổi mới phương pháp giảng dạy, xây dựng bài giảng hiện đại, hấp dẫn, đưa nhiều ví dụ minh hoạ thực tế vào bài giảng; tránh phương pháp dạy học một chiều, thiên về lý thuyết tạo tâm lý nhàm chán cho người học. Đối với cấp bậc đại học, cần thường xuyên cho sinh viên trao đổi thảo luận về quyền con người trên lớp thông qua việc cho sinh viên làm bài tập lớn theo nhóm, cho sinh viên đóng vai luật sư tư vấn, diễn thuyết vấn đề nghiên cứu... Ngoài ra, cần khuyến khích sinh viên thành lập các câu lạc bộ chuyên ngành để sinh viên có thế cùng nhau học tập, sinh hoạt chủ đề môn học theo tháng, học nhóm, cùng nhau thảo luận những vướng mặc, khó khăn trong quá trình học tập môn học; để từ đó, cùng có hướng giải quyết và phương pháp học tích cực.
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên có kiến thức chuyên môn phục vụ công tác giáo dục quyền con người trong hệ thống các trường đại học, bao gồm cả giảng viên chuyên môn quyền con người và giảng viên trong các chuyên môn khác có liên quan đến nội dung quyền con người. Đây là một lĩnh vực mới ở Việt Nam, lại có nhiều quan điểm, học thuyết chưa thống nhất do đó đặt ra yêu cầu với giảng viên phụ trách phải có kiến thức sâu rộng về quyền con người mới có thể truyền tải kiến thức đến sinh viên đồng thời định hướng đúng đắn cho sinh viên trong những quan điểm trái chiều. Do vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhân quyền cho đội ngũ giảng viên các trường đại học là rất cần thiết. Trước mắt, để đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục nhân quyền trong các trường đại học trong thời gian này, có thể đào tạo giảng viên chuyên trách từ đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn học có liên quan.
Thứ năm, chuẩn hoá việc biên soạn giáo trình, sách, tài liệu giáo dục về quyền con người.
Các nhóm người thụ hưởng khác nhau sẽ được hưởng những quyền lợi khác nhau, đồng thời cách tiếp cận cũng khác nhau, nhu cầu mục đích tiếp cận các thông tin về quyền con người khác nhau. Do đó, nếu chỉ sử dụng chung một loại tài liệu/giáo trình quyền con người thì sẽ không phù hợp, vì vậy cần phải chuẩn hoá các tài liệu giáo dục quyền con người cho từng nhóm chủ thể trên cơ sở tính hệ thống, liên thông của tài liệu. Ví dụ, xây dựng giáo trình, tài liệu giáo dục kiến thức quyền con người cho nhóm sinh viên chuyên luật và sinh viên không chuyên luật. Trong từng nhóm cũng cần tính đến sự khác biệt trong chuyên môn, ngành nghề được đào tạo để xây dựng tài liệu.
Thứ sáu, áp dụng công nghệ thông tin và lợi ích của các mạng xã hội trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục quyền con người.
Để hỗ trợ cho các hình thức, phương pháp giáo dục, cần tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, thông tin về quyền con người, quyền công dân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Với lợi thế là tính phổ cập, kịp thời và rộng khắp, báo chí là một kênh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người đạt hiệu quả cao. Ngày nay, sự đa dạng các loại hình báo chí như: báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử đã góp phần ngày càng nâng cao hiệu quả và chất lượng thông tin. Phát huy thế mạnh đặc trưng của mình, mỗi loại hình báo chí đều có thể tìm được những hình thức thích hợp để chuyển tải nội dung giáo dục quyền con người đến đối tượng một cách hiệu quả nhất. Nhà nước cần có chính sách đầu tư nguồn lực, kỹ thuật thích hợp cho các cơ quan thông tin tuyên truyền, đặc biệt là các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo chí để các cơ quan này có điều kiện thuận lợi thực hiện hoạt động của mình. Đồng thời, các cơ quan thông tin đại chúng cần coi hoạt động tuyên truyền, giáo dục quyền con người là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, từ đó xây dựng các chuyên mục, chương trình thường xuyên, liên tục và rộng khắp cho hoạt động này.
Bên cạnh đó, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng những lợi ích từ các mạng xã hội để phổ biến các thông tin về quyền con người một cách nhanh chóng và tiếp cận được rất nhiều đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, khi tiếp nhận các thông tin từ mạng xã hội, người đọc cần phải chắt lọc các thông tin chính thống, có tư duy phản biện để nhìn nhận được chính xác vấn đề.
Để xây dựng được một nền giáo dục quyền con người phát triển ở nước ta nói chung và trong hệ thống các trường đại học nói riêng, chúng ta phải triệt để thực hiện tổng hợp các biện pháp, định hướng trên kết hợp với sự quyết tâm về chính trị, đặc biệt từ phía cơ quan quản lý mà trực tiếp là Bộ Giáo dục và đào tạo, và các cơ quan hữu quan để sự nghiệp phát triển nền giáo dục quyền con người của của Việt Nam vươn lên xứng tầm thế giới.
TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
[1] Wolfgang Benedek, chủ biên (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.12.
[3] Xem Võ Khánh Vinh, chủ biên (2010), Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.342.