Tóm tắt: Trên cơ sở nghiên cứu so sánh quy định pháp luật Việt Nam, tập trung vào pháp luật tố tụng hình sự, với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo vệ nạn nhân của tội phạm, bài viết đánh giá và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam theo hướng tương thích với pháp luật quốc tế và tăng cường hiệu quả bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong tố tụng hình sự.
Từ khóa: Nạn nhân của tội phạm; Bảo vệ nạn nhân của tội phạm; luật tố tụng hình sự Việt Nam; so sánh pháp luật quốc tế.
Quy trình tố tụng hình sự (TTHS) vốn được thiết lập để xử lý người phạm tội nhằm khôi phục công lý, bảo vệ, phục hồi quyền con người đã bị tội phạm xâm hại của nạn nhân. Tuy nhiên, do quan niệm truyền thống vẫn coi mục tiêu chính của TTHS là thực thi quyền lực nhà nước và công lý nên mối quan hệ nhà nước - người phạm tội luôn là trung tâm của TTHS. Điều đó khiến cho những nỗ lực lập pháp và hành động thực tiễn nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm hiện nay còn khá mờ nhạt. Trong pháp luật Việt Nam, các quy định nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm cũng đã được đặt ra và có phát triển, bổ sung trong lần pháp điển hóa luật TTHS năm 2015, nhất là là qua những quy định về địa vị pháp lý, biện pháp bảo vệ bị hại trong TTHS. Mặc dù vậy, những quy định này còn mang tính nguyên tắc, chưa sát với thực tế, nhiều điểm chưa tương thích với pháp luật quốc tế và khó thực thi do chưa cụ thể, thiếu cơ chế bảo đảm. Do đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm hiện nay là hết sức cấp thiết.
1. Tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo vệ nạn nhân của tội phạm
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là một vấn đề chưa được quan tâm nhiều trong pháp luật quốc tế và chưa có một công ước quốc tế nào về quyền của chủ thể này. Tuy nhiên, năm 1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản về công lý cho nạn nhân của hành vi phạm tội và lạm dụng quyền lực (sau đây gọi tắt là Tuyên bố về nạn nhân năm 1985). Để thúc đẩy thực hiện Tuyên bố, Liên hợp quốc cũng đã tiến hành soạn thảo và phổ biến Hướng dẫn về việc thực hiện Tuyên bố cho những người hành nghề luật. Việc “giúp đỡ và bảo vệ các nạn nhân” cũng được đề cập đến trong Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên hợp quốc được Đại hội đồng thông qua ngày 15/11/2000.
Ở cấp khu vực, Công ước Châu Âu về bồi thường cho các nạn nhân của tội phạm bạo lực năm 1983 (gọi tắt là Công ước Châu Âu năm 1983) là một tiêu chuẩn đáng tham khảo vì nhận thức ưu việt về việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm với quan điểm việc giúp đỡ các nạn nhân “phải là một mối quan tâm thường xuyên của chính sách tội phạm, ngang tầm với việc trừng phạt hình sự đối với những kẻ phạm tội”1.
Mặc dù ở quy mô quốc tế và khu vực chưa có sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm nhưng pháp luật quốc tế vẫn xác định được một số tiêu chuẩn cơ bản về bảo vệ nạn nhân của tội phạm.
i) Về công nhận nạn nhân của tội phạm: khoản 1 Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 xác định khái niệm “nạn nhân” “chỉ những người, là cá nhân hoặc tập thể, bị xâm hại, kể cả tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, đau đớn về tình cảm, thiệt hại về kinh tế hoặc mất đi nhiều quyền cơ bản của bản thân, bởi những hành động hoặc sự thiếu trách nhiệm vi phạm luật hình sự hiện hành tại các quốc gia thành viên”. Tiếp theo đó, khoản 2 làm rõ thêm rằng nạn nhân được công nhận cho dù thủ phạm có bị phát hiện, bị bắt, bị truy tố hay kết án hay không và cho dù giữa thủ phạm và nạn nhân có mối quan hệ như thế nào. Khoản này cũng thừa nhận nạn nhân còn bao gồm: gia đình hoặc những người sống phụ thuộc trực tiếp vào nạn nhân và những người bị xâm hại khi can thiệp trợ giúp nạn nhân hoặc ngăn chặn các hành vi phạm tội.
Cách hiểu tương tự như vậy đã được đặt ra trước đó bởi Công ước Châu Âu năm 1983. Trong một khuôn khổ hẹp - nạn nhân của tội phạm bạo lực - Công ước thừa nhận đối tượng nạn nhân đủ điều kiện bồi thường tại Điều 2 gồm: 1) “Những người bị thương nghiêm trọng trên cơ thể hoặc sức khoẻ suy yếu bởi nguyên nhân trực tiếp từ một vụ bạo hành có chủ ý”; 2) “Những người sống phụ thuộc vào người đã chết do hậu quả của tội ác này” ngay cả khi thủ phạm không bị truy tố hoặc trừng phạt. Ngoài ra, trong áp dụng Công ước này, nạn nhân cũng được giải thích còn có thể là người bị thương hoặc bị giết khi đang cố gắng ngăn chặn một vụ phạm tội, bắt thủ phạm hay giúp đỡ nạn nhân.1
Như vậy, quan niệm về nạn nhân của tội phạm trong pháp luật quốc tế gồm 3 loại: 1) Nạn nhân trực tiếp là người bị xâm hại trực tiếp bởi tội phạm; 2) Nạn nhân gián tiếp gồm thành viên gia đình hoặc những người sống phụ thuộc vào nạn nhân trực tiếp; 3) Nạn nhân mở rộng là những người bị tội phạm xâm hại do can thiệp để giúp đỡ nạn nhân trực tiếp hoặc ngăn chặn tội phạm. Các nạn nhân này được công nhận bất kể thủ phạm có bị phát giác, truy tố, kết án hay không.
ii) Về xác định thiệt hại do tội phạm đối với nạn nhân: Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 công nhận thiệt hại do tội phạm gây ra bao gồm các tổn thất về thể chất hoặc tinh thần, tổn thương về tình cảm, thiệt hại về kinh tế hoặc tổn hại đến các quyền cơ bản (khoản 1).
iii) Về quyền được đối xử công bằng, thích hợp của nạn nhân của tội phạm: nguyên tắc chung về đối xử với nạn nhân trong TTHS được thiết lập tại khoản 4 của Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 là: “Các nạn nhân nên được đối xử với tình thương và tôn trọng nhân phẩm của họ. Họ được quyền tiếp cận với các cơ chế của công lý và được đền bù nhanh chóng theo quy định của pháp luật quốc gia vì sự thiệt hại mà họ đã phải chịu đựng”. Theo đó việc được đối xử với tình thương và sự tôn trọng nhân phẩm, được tiếp nhận công lý, nhận đền bù nhanh chóng và thuận lợi là những ưu tiên quan trọng nhất trong đối xử với nạn nhân của tội phạm.
Để bảo đảm cho nạn nhân được đối xử với sự cảm thông, tôn trọng, Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 yêu cầu cảnh sát, những người làm nghề tư pháp, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã hội và cá nhân liên quan khác “nên được đào tạo để thích ứng với các nhu cầu của nạn nhân và hướng dẫn bảo đảm trợ giúp nhanh chóng và đúng đắn” (khoản 16).
iv) Về quyền tiếp cận công lý của nạn nhân của tội phạm: để bảo đảm quyền tiếp cận công lý, khoản 6 Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án phải áp dụng các biện pháp tạo điều kiện thuận cho việc đáp ứng các nhu cầu của nạn nhân về: quyền tiếp cận thông tin (thông báo cho các nạn nhân về vai trò và phạm vi, thời gian và tiến triển của các thủ tục và về cách xử lý vụ việc của họ); quyền bày tỏ ý kiến, nguyện vọng (trong những giai đoạn thích hợp của quá trình tố tụng, bảo đảm nạn nhân được trình bày quan điểm, mối quan tâm của mình và cơ quan tiến hành tố tụng phải cân nhắc quan điểm, mối quan tâm đó); quyền được cung cấp sự trợ giúp đầy đủ suốt quá trình tố tụng; quyền được giải quyết vụ án và thi hành các mệnh lệnh hay quyết định trao cho nạn nhân một cách nhanh chóng, tránh trì hoãn không cần thiết.
v) Về bảo vệ cuộc sống riêng tư và an toàn cho nạn nhân của tội phạm: Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng có các biện pháp nhằm: bảo vệ sự riêng tư, an toàn của nạn nhân cũng như của gia đình của họ và nhân chứng đại diện cho họ, không bị đe dọa và trả thù bất cứ khi nào cần thiết; xóa bỏ khó khăn, rào cản đối với nạn nhân trong tố tụng (điểm d khoản 6).
vi) Về khắc phục hậu quả của tội phạm đối với nạn nhân: theo khoản 8 Tuyên bố về nạn nhân năm 1985, trách nhiệm khắc phục hậu quả thuộc về người phạm tội hoặc bên thứ ba có lỗi trong việc gây ra hậu quả của tội phạm. Biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm: trả lại tài sản hay thanh toán về những thiệt hại hoặc mất mát, hoàn trả lại những chi phí phát sinh là kết quả của hành vi phạm tội, cung cấp dịch vụ và khôi phục các quyền của nạn nhân. Trong trường hợp tội phạm thực hiện bởi các công chức nhà nước hoặc những người đại diện thực hiện chức năng nhà nước, người đại diện tổ chức trong khi thực hiện chức năng của nhà nước, tổ chức thì trách nhiệm khắc phục hậu quả, phục hồi cho nạn nhân thuộc về chính phủ có các công chức hoặc cơ quan có người đại diện đã gây ra tội phạm đó (khoản 11 Tuyên bố về nạn nhân năm 1985). Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 đồng thời cũng khuyến nghị về trách nhiệm của nhà nước trong việc ban hành các biện pháp khắc phục hậu quả của tội phạm: các quốc gia nên xem xét quy định pháp luật để các biện pháp khắc phục hậu quả “như một sự lựa chọn sẵn có trong các vụ án hình sự, bên cạnh các hình phạt tương ứng khác” (khoản 9).
vii) Về bồi thường cho nạn nhân của tội phạm: khoản 5 Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 đặt ra yêu cầu đối với pháp luật quốc gia trong việc thiết lập các cơ chế nhằm tạo điều kiện cho nạn nhân “đạt được sự đền bù nhanh chóng, công bằng, ít tốn kém và dễ tiếp cận”. Các cơ chế không chính thức giải quyết các tranh chấp như trung gian, trọng tài, tập quán… được Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 khuyến khích sử dụng bất kỳ khi nào thích hợp để bảo đảm sự hòa giải và đền bù cho nạn nhân (khoản 7).
Trong trường hợp việc bồi thường cho nạn nhân không có được từ người phạm tội hay nguồn khác (ví dụ: bảo hiểm) thì Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về nhà nước (khoản 12). Do đó, Tuyên bố cũng khuyến khích việc thiết lập, tăng cường và mở rộng các quỹ quốc gia về bồi thường cho nạn nhân (khoản 13). Quan điểm về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong trường hợp này cũng được thống nhất bởi Điều 2 Công ước Châu Âu năm 1983 và bổ sung thêm rằng nhà nước phải bảo đảm quyền được bồi thường của nạn nhân ngay cả khi thủ phạm không bị/không thể truy tố và trừng phạt. Tuy nhiên, để bảo đảm công bằng, chính đáng, Điều 8 và Điều 9 Công ước Châu Âu năm 1983 quy định việc bồi thường đó có thể giảm bớt hoặc bị từ chối, xét theo hành vi của nạn nhân trong mối quan hệ với hành vi phạm tội (ví dụ: tội phạm thực hiện trong trường hợp bị kích động bởi thái độ, hành vi sai trái của nạn nhân) hoặc trong những trường hợp nạn nhân được biết là dính líu đến hành vi phạm tội có tổ chức như buôn bán ma tuý hoặc khủng bố. Để tránh bồi thường hai lần, các quốc gia có quyền yêu cầu nạn nhân trả lại một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường đã được nhà nước thanh toán sau khi nhận được bồi thường từ người phạm tội hoặc các nguồn an sinh, bảo hiểm...
viii) Về trợ giúp đối với nạn nhân của tội phạm: ngoài những nhu cầu về tài chính, nạn nhân của tội phạm có thể có nhu cầu khác nhau về vật chất, khám chữa bệnh, tâm lý và xã hội, việc đáp ứng những nhu cầu này rất quan trọng để khắc phục tổn thương của nạn nhân. Do đó, Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 yêu cầu việc các cơ quan chức năng cung cấp trợ giúp đầy đủ cho các nạn nhân suốt quá trình tố tụng (điểm c khoản 6). Các nạn nhân phải được cung cấp thông tin về “sự sẵn có của các dịch vụ xã hội và sức khỏe, các trợ giúp thích hợp khác và sẵn sàng cho họ được tiếp cận dễ dàng” (khoản 15). Và để bảo đảm sự giúp đỡ kịp thời và có hiệu quả cho nạn nhân của tội phạm, Tuyên bố về nạn nhân năm 1985 yêu cầu: “Cảnh sát, cán bộ tư pháp, dịch vụ sức khỏe, dịch vụ xã hội và cá nhân liên quan khác nên được đào tạo để thích ứng với các nhu cầu của nạn nhân và hướng dẫn bảo đảm trợ giúp nhanh chóng và đúng đắn”.
Cơ quan chức năng Việt Nam tiếp nhận nạn nhân bị mua bán do lực lượng Công an Trung quốc trao trả
Nguồn: dangcongsan.vn
2. Mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo vệ nạn nhân của tội phạm
Việc bảo vệ các quyền con người nói chung, trong đó có bảo vệ quyền con người của nạn nhân của tội phạm được tuyên bố bởi văn bản pháp luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành - Hiến pháp năm 2013. Điều 14 Hiến pháp tuyên bố: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Trong TTHS, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân một lần nữa được nhắc lại bởi Điều 8 Bộ luật TTHS năm 2015. Trên cơ sở đó, các quy định cụ thể nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm được đặt ra trong Bộ luật TTHS và một số văn bản pháp luật liên quan.
i) Về công nhận nạn nhân của tội phạm: thuật ngữ “nạn nhân của tội phạm” với ý nghĩa là nạn nhân của tất cả các loại tội phạm nói chung không được đề cập trong pháp luật Việt Nam. “Nạn nhân” chỉ được đề cập trong một số trường hợp cụ thể là nạn nhân của bạo lực gia đình (gồm cả những trường hợp chưa đến mức cấu thành tội phạm), nạn nhân của buôn bán người.3 Nạn nhân của các loại tội phạm nói chung được điều chỉnh chính thức trong pháp luật Việt Nam bởi Bộ luật TTHS dưới tư cách là “bị hại”. Khoản 1 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015 định nghĩa: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Theo đó, phạm vi bị hại chỉ bao gồm nạn nhân trực tiếp. Nạn nhân gián tiếp không được đề cập, nạn nhân mở rộng không được coi là bị hại, có thể xuất hiện trong TTHS dưới tư cách nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này dẫn đến những người phụ thuộc vào nạn nhân trực tiếp, nhất là trong các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, phải chịu thiệt hại nghiêm trọng nhưng không được bảo vệ. Đồng thời những người tham gia đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ nạn nhân trực tiếp mà bị tội phạm xâm hại cũng không nhận được sự bảo vệ thích đáng từ pháp luật dẫn đến suy giảm nhiệt tình, trách nhiệm đấu tranh chống tội phạm trong quần chúng nhân dân.
Mặc dù về mặt quy định, nạn nhân của tội phạm đương nhiên là một chủ thể của quá trình TTHS với tư cách bị hại. Tuy nhiên, trên thực tế, do chưa có cơ sở pháp lý để công nhận bị hại trong pháp luật Việt Nam nên tư cách tham gia tố tụng của nạn nhân được xác định “gián tiếp” trong các vụ án được khởi tố thông qua các loại văn bản, quyết định khác trong tố tụng như: qua quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại; qua biên bản lấy lời khai, giấy triệu tập tham gia phiên tòa... trong trường hợp vụ án khởi tố không phụ thuộc vào yêu cầu của bị hại. Do đó, trong thực tế nạn nhân có tư cách tham gia tố tụng hay không, tham gia từ khi nào và có thể bị thay đổi tư cách tố tụng phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng. Điều đó dẫn đến nạn nhân (và người đại diện, bảo vệ của họ) hoàn toàn bị động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Đối với những vụ án không được khởi tố (ví dụ: thủ phạm chết) thì không có thủ tục pháp lý nào công nhận nạn nhân và đặt ra vấn đề khắc phục những thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu do tội phạm.
ii) Về xác định thiệt hại do tội phạm đối với nạn nhân: theo định nghĩa bị hại tại Điều 62 Bộ luật TTHS thì thiệt hại do tội phạm gây ra cho cá nhân gồm thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Quy định về thiệt hại trong chế định Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Chương XX của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 mô tả cụ thể hơn, gồm thiệt hại về: tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác và thiệt hại tinh thần do bị những thiệt hại trên. Như vậy, so với quy định pháp luật quốc tế và so với Bộ luật Dân sự hiện hành thì quy định về thiệt hại của nạn nhân trong Bộ luật TTHS năm 2015 chưa cụ thể và đầy đủ. Ngoài thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản thì thiệt hại về các quyền, tự do cơ bản cần phải được ghi nhận là một trong các loại thiệt hại chủ yếu mà nạn nhân phải gánh chịu do tội phạm.
iii) Về quyền được đối xử thích hợp của nạn nhân của tội phạm: pháp luật Việt Nam không có nguyên tắc chung về thái độ ứng xử thích hợp với nạn nhân của tội phạm trong TTHS mà chỉ có ứng xử với nạn nhân là người bị hại dưới 18 tuổi được đề cập trong các quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi ở Chương XXVIII. Do vậy, thái độ ứng xử của người tiến hành tố tụng với nạn nhân tuân thủ nguyên tắc chung trong TTHS là: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân” (Điều 8 Bộ luật TTHS năm 2015). Ngoài ra, tiêu chuẩn về ứng xử của người tiến hành tố tụng còn tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được ban hành nội bộ hệ thống cơ quan theo ngành dọc. Tuy nhiên, yêu cầu chính thức về sự cảm thông, quan tâm, nhạy cảm với các nhu cầu của nạn nhân không được đặt ra trong ứng xử của người tiến hành tố tụng. Trong quy tắc ứng xử của công an nhân dân có yêu cầu ưu tiên trong giải quyết công việc với một số đối tượng yếu thế, dễ tổn thương như: người già, yếu, người khuyết tật, đau ốm, phụ nữ mang thai4 nhưng không có ưu tiên cho nạn nhân của tội phạm. Trong các chương trình đào tạo luật gia, điều tra viên, kiểm sát viên, các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở Việt Nam có thể có môn tội phạm học, tâm lý học tội phạm nhưng không có nạn nhân học hay tâm lý nạn nhân.
iv) Về quyền tiếp cận công lý của nạn nhân của tội phạm: nhằm bảo đảm quyền được đối xử công bằng và tiếp cận công lý cho nạn nhân, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về các quyền của người bị hại (hoặc người đại diện của họ) trong TTHS ở Điều 62. Các quyền cụ thể gồm:
+ Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng;
+ Đưa ra, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
+ Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bao gồm thành viên Hội dồng xét xử; đề nghị thay đổi người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
+ Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
+ Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
+ Trình bày lời buộc tội tại phiên tòa trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại;
+ Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
+ Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng công nhận vai trò của nạn nhân trong việc quyết định khởi tố vụ án ở một số trường hợp đặc biệt ở Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015.5 Trong trường hợp này chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại (khi bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết). Nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ khi có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Về mặt quy định, những quyền trên đã đáp ứng các tiêu chí về bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân trong pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, nhiều quy định trong đó khó được bảo đảm thực hiện do chưa cụ thể, thiếu ràng buộc. Chẳng hạn như luật quy định bị hại (và người đại diện của họ) có quyền được thông báo về kết quả điều tra, giải quyết vụ án; quyền được giải thích quyền, nghĩa vụ tố tụng nhưng do quy định chưa cụ thể là cơ quan/người tiến hành tố tụng chủ động thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hay chỉ cung cấp khi được yêu cầu, thực hiện nghĩa vụ giải thích quyền, nghĩa vụ tố tụng trong tất cả các hoạt động tố tụng hay chỉ tại thời điểm bắt đầu quy trình tố tụng... Thiếu cụ thể và ràng buộc chắc chắn sẽ dẫn đến việc khó bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế.
v) Về bảo vệ cuộc sống riêng tư và an toàn cho nạn nhân của tội phạm: việc bảo vệ đời sống riêng tư và an toàn của nạn nhân được khẳng định từ nguyên tắc của TTHS Việt Nam. Bên cạnh đó, Điều 25 Bộ luật này cũng quy định việc xét xử kín được thực hiện trong trường hợp cần bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự.
Về biện pháp cụ thể để bảo vệ an toàn của nạn nhân và thân nhân của họ, Bộ luật TTHS năm 2015 trao cho bị hại quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa (Điều 62). Thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ cụ thể quy định tại Chương XXXIV Bộ luật TTHS năm 2015. Tuy nhiên, Điều 484 và 487 Bộ luật TTHS năm 2015 lại chỉ trao quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ cho chính người được bảo vệ. Như vậy, người tâm thần, người dưới 18 tuổi hay người bị hạn chế về nhận thức, có bệnh tật, thương tích dẫn đến hạn chế năng lực hành vi, có khó khăn rào cản khác (ví dụ: đang sống cùng thủ phạm, đang chịu sự chi phối, ảnh hưởng từ thủ phạm...) khó có thể thực hiện quyền này.
vi) Về khắc phục hậu quả của tội phạm đối với nạn nhân: các biện pháp khắc phục hậu quả của tội phạm và bồi thường cho nạn nhân của tội phạm được quy định trong pháp luật Việt Nam bởi Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm: trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi tại Điều 46, 48. Các biện pháp khắc phục này được quy định với tư cách biện pháp tư pháp - một hình thức trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Việc quy định như vậy phù hợp với yêu cầu tại khoản 8 Tuyên bố về nạn nhân năm 1985.
vii) Về bồi thường cho nạn nhân của tội phạm: như nêu trên, luật hình sự Việt Nam quy định bồi thường thiệt hại là một biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội nhằm bù đắp tổn thất cho nạn nhân. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không có biện pháp bồi thường cho nạn nhân trong trường hợp không có nguồn bồi thường từ người phạm tội, bảo hiểm hay hình thức bù đắp nào khác. Bồi thường nhà nước cho nạn nhân của tội phạm chỉ áp dụng trong trường hợp tội phạm thực hiện bởi người thi hành công vụ.6 Do đó, trong những trường hợp người phạm tội chết, người phạm tội không có khả năng bồi thường, không xác định được người phạm tội, xác định được nhưng không truy bắt, xử lý được người phạm tội thì nạn nhân sẽ không nhận được bồi thường để bù đắp tổn thất, khắc phục những khó khăn của họ.
viii) Về trợ giúp đối với nạn nhân của tội phạm: Bộ luật TTHS năm 2015 không có quy định ràng buộc nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc cung cấp cho nạn nhân thông tin về những sự trợ giúp mà họ có thể nhận được, trừ trợ giúp pháp lý trong những trường hợp quy định.7 Ngoài trường hợp trợ giúp pháp lý, luật cũng không có ràng buộc gì về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kết nối với cơ quan, tổ chức hữu quan, tạo điều kiện cho bị hại nhận được sự trợ giúp cần thiết như: tài chính, an sinh, y tế, tư vấn tâm lý... Ngay cả trách nhiệm phản hồi những ý kiến, đề nghị nhằm bảo vệ nạn nhân từ các tổ chức hữu quan (ví dụ như Hội Bảo vệ trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ, Tổng đài quốc gia về bảo vệ trẻ em…) cũng không có cơ chế nào ràng buộc đối với cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các quy định liên quan theo hướng tương thích với tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo vệ nạn nhân của tội phạm
Qua việc nghiên cứu so sánh về mức độ tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế hiện có về bảo vệ nạn nhân của tội phạm, có thể thấy rằng Bộ luật TTHS hiện hành của Việt Nam và các quy định pháp luật liên quan còn phải tiếp tục hoàn thiện mới đáp ứng các tiêu chuẩn này. Cụ thể là trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, mở rộng quan niệm về nạn nhân của tội phạm: như đã phân tích, để tương thích với pháp luật quốc tế và cung cấp sự bảo vệ đầy đủ cho những người bị tổn thương do tội phạm, Bộ luật TTHS Việt Nam cần thừa nhận bị hại gồm cả nạn nhân trực tiếp, nạn nhân gián tiếp, nạn nhân mở rộng. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam có thể cân nhắc dùng thuật ngữ “nạn nhân” thay vì “bị hại” như hiện nay. Sử dụng thuật ngữ “bị hại” về mặt nghĩa cũng không có sự khác biệt nhiều với “nạn nhân” và hài hòa với các thuật ngữ “bị can” “bị cáo”. Tuy nhiên, trong thực tế thuật ngữ nạn nhân thường được dùng để nhấn mạnh những tổn thương nên nếu thuật ngữ này được đưa vào luật sẽ tạo ra ấn tượng sâu sắc hơn về tình trạng thiệt hại và nhu cầu cần được cảm thông, trợ giúp của họ.
Thứ hai, bổ sung căn cứ, thủ tục công nhận nạn nhân của tội phạm để xác định rõ, thống nhất tư cách, thời điểm tham gia vào tố tụng, thời điểm cung cấp thông tin và thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của nạn nhân trong các vụ án. Việc công nhận tư cách nạn nhân trong các vụ án được khởi tố nhằm bảo đảm các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Bên cạnh đó, việc công nhận tư cách nạn nhân và tuyên bố rõ biện pháp khắc phục thiệt hại cho nạn nhân phải được thực hiện kể cả khi vụ án không được khởi tố hoặc không xác định được người phạm tội, không bắt giữ, truy cứu được người phạm tội.
Thứ ba, bổ sung yêu cầu về đối xử thích hợp với nạn nhân trong tố tụng hình sự. Cần phải đặt ra yêu cầu về sự tôn trọng, thân thiện, cảm thông đối với nạn nhân trong các thủ tục tố tụng giống như trường hợp ứng xử với người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi; yêu cầu ưu tiên xác định các tổn thương và nhu cầu của nạn nhân trong điều tra vụ án hình sự. Bên cạnh việc bổ sung về mặt lập pháp, cần phải tăng cường giáo dục quyền con người, lồng ghép các kiến thức về nạn nhân học, tâm lý nạn nhân vào trong các trường trình đào tạo nghề luật và các chức danh tư pháp.
Thứ tư, quy định ràng buộc nghĩa vụ cung cấp thông tin cho nạn nhân của cơ quan tiến hành tố tụng. Để bảo đảm nạn nhân được tiếp cận thông tin, thuận lợi cho việc bảo vệ quyền của họ, cần quy định chặt chẽ về việc cơ quan/người tiến hành tố tụng cần chủ động thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án, giải thích quyền, nghĩa vụ cụ thể trong cả quy trình và trong mỗi hoạt động tố tụng cho nạn nhân (người đại diện của họ).
Thứ năm, sửa đổi quy định về quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của nạn nhân. Để bảo đảm quyền này luôn khả thi trên thực tế cần phải sửa đổi quy định theo hướng những người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ bao gồm: bản thân người được bảo vệ; người đại diện hợp pháp, người chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục người được bảo vệ; cơ quan, tổ chức hữu quan nơi người được bảo vệ công tác, học tập, lao động hoặc người đó là thành viên, là đối tượng mà tổ chức có chức năng chăm sóc, bảo vệ.
Thứ sáu, mở rộng phạm vi áp dụng bồi thường nhà nước đối với nạn nhân của tội phạm. Để bảo đảm nạn nhân được bù đắp tổn thương và tăng thêm cơ hội phục hồi sau tội phạm cho họ cùng thân nhân; thực hiện yêu cầu của pháp luật quốc tế, cần bổ sung trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với trường hợp không có (hoặc khó có được) nguồn bồi thường từ người phạm tội, bảo hiểm hay hình thức bù đắp nào khác. Để tránh việc bồi thường không công bằng cũng cần quy định cụ thể việc nạn nhân đã nhận bồi thường từ nhà nước sẽ phải trả lại khi nhận được bồi thường từ người phạm tội hoặc nguồn khác. Trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi của nạn nhân cũng có thể bị từ chối bồi thường.
Thứ bảy, bổ sung quy định ràng buộc nghĩa vụ của cơ quan tiến hành trong việc cung cấp cho nạn nhân thông tin về những sự trợ giúp mà họ có thể nhận được. Trong đó bao gồm cả nghĩa vụ kết nối, phản hồi thông tin với các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm bảo vệ các đối tượng nạn nhân (các tổ chức chính trị, xã hội).
Tựu trung lại, trong bối cảnh mà trọng tâm của TTHS vẫn còn khá nghiêng về mối quan hệ nhà nước - người phạm tội, vị thế của nạn nhân trong TTHS còn mờ nhạt nhưng Bộ luật TTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan đã có một hệ thống các quy định bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong TTHS dưới tư cách bị hại. Những quy định này cơ bản đã giải quyết đầy đủ các khía cạnh quyền của nạn nhân, tuy nhiên vẫn còn những điểm chưa tương thích, chưa đáp ứng hoàn toàn các tiêu chuẩn về bảo vệ nạn nhân của tội phạm, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ hiệu quả các quyền con người của nạn nhân trong TTHS không chỉ là nội dung của việc thực hiện nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ đối với quyền con người; thể hiện bản chất tiến bộ của chế độ pháp luật và nền tư pháp; tăng cường bảo vệ quyền con người của nhóm yếu thế, dễ tổn thương mà còn góp phần bảo đảm tính công bằng, khách quan của quy trình TTHS. Quy trình tố tụng sẽ không thể có kết quả công bằng, khách quan, phản ánh đúng sự thật vụ án khi mà các bên tham gia tố tụng không được bảo đảm tham gia tố tụng một cách an toàn, thuận lợi, không được đối xử công bằng, không được trao cho điều kiện thích hợp để chứng minh, yêu cầu quyền lợi của mình.
TS. Trần Thị Hồng Lê* - Phạm Quỳnh Quyên
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
-----
Tài liệu trích dẫn
(1) Hội đồng châu Âu (1983), Công ước châu Âu về bồi thường cho nạn nhân của các tội phạm bạo lực, bản gốc xem tại: https://rm.coe.int/1680079751.
(2) Hội đồng châu Âu (1983), Báo cáo giải thích Công ước châu Âu về bồi thường cho nạn nhân của các tội phạm bạo lực, bản gốc xem tại: https://rm.coe.int/16800c96fc#:~:text=11.-,The%20European%20Convention%20on%20the%20Compensation%20of%20Victims%20of%20Violent,27%2C%20pursues%20the%20following%20aims%3A&text=%2D%20the%20compensation%20of%20foreign%20victims,in%20all%20matters%20concerning%20compensation
(3) Xem: 1) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; 2) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Phòng, chống mua bán người.
(4) Bộ Công an (2017), Thông tư số: 27/2017/TT-BCA quy định về quy tắc ứng xử của công an nhân dân, khoản 2 Điều 6.
(5) Các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là các vụ án về tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tội phạm về tình dục, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong danh mục quy định ở Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015.
(6) Quốc hội (2017), Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật số: 10/2017/QH14.
(7) Điều 71 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định người/cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý trong trường hợp người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và thông báo tới Trung tâm Trợ giúp pháp lý trong trường hợp bị hại có yêu cầu trợ giúp.