Ảnh minh họa. Nguồn: quochoi.vn

1. Quan tâm bảo đảm, thúc đẩy quyền con người là nhu cầu mang tính tất yếu trong xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước 
Quyền con người là giá trị cao quý được cộng đồng quốc tế, các quốc gia và mọi thành viên gia đình nhân loại quan tâm thúc đẩy, bảo vệ. Là thành viên tích cực của Liên hợp quốc, Việt Nam không ngừng phấn đấu bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người trên mọi lĩnh vực của đời sống Nhà nước, đời sống xã hội. Các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của đời sống xã hội cũng chính là các lĩnh vực của quyền con người. Các lĩnh vực này bất cứ quốc gia dân tộc nào, đảng phái nào cũng tự đặt lên vai mình nghĩa vụ thực hiện trong quá trình xây dựng và phát triển quốc gia, dân tộc. 
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”1. Sự nghiệp cách mạng của Đảng là chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, chính là bảo đảm, thúc đẩy quyền con người của toàn thể Nhân dân Việt Nam, góp chung vào tiến trình phát triển của nhân loại.
2. Bảo đảm và thúc đẩy quyền con người là tư tưởng xuyên suốt được thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Quyền con người bao gồm tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, từ dân sự, chính trị đến kinh tế, xã hội và văn hóa. Có thể khẳng định rằng, các văn kiện của các kỳ Đại hội như những áng văn thể hiện rõ nét nhất thành quả cũng như hạn chế trên mọi lĩnh quan trọng của cuộc sống, và đặc biệt hơn là chỉ ra cho dân tộc con đường phát triển tiếp theo. Cũng trên con đường ấy, quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy. Các văn kiện Đại hội XIII tiếp tục chỉ rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đồng bộ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Đây là cơ sở chính trị quan trọng tiếp sức cho bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy, trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thể chế hóa tinh thần, nội dung các văn kiện của Đảng thành pháp luật mà tư tưởng bao trùm, xuyên suốt trong cả đường lối, chính sách và pháp luật là bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Đồng thời, tư tưởng lớn này còn được thể hiện trong các quy định cụ thể trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đường lối của Đảng ,và chính sách pháp luật của Nhà nước. Thành quả này là rất rõ, vậy mà vẫn còn ý kiến sai trái, thù địch cố tình hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và xuyên tạc kết quả bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.
2.1. Về quan hệ quốc tế, thực hiện cam kết quốc tế
Liên hợp quốc lấy quyền con người làm trụ cột trong tổ chức, hoạt động và tích cực thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trên phạm vi toàn thế giới trong suốt hơn 70 năm qua. Cùng với các quốc gia, dân tộc khác của tổ chức Liên hợp quốc, Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Thể hiện rõ hơn vai trò của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, các văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở Châu Á - Thái Bình Dương”2, đồng thời: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”3. 
Một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam triển khai thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của quốc gia thành viên Liên hợp quốc và của quốc gia thành viên các điều ước quốc tế nói chung, các điều ước về quyền con người nói riêng, văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng là: “Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế”4. Quy định này thể hiện rõ ý thức trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, không như những gì mà các thế lực thù địch vu cáo Việt Nam coi thường pháp luật quốc tế, cam kết quốc tế để vi phạm quyền con người.
2.2. Về các quyền dân sự, chính trị
Cụ thể hóa quy định bảo vệ, thực hiện quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, các văn kiện Đại hội nhấn mạnh: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”5. Đồng thời Đại hội cũng nêu cao nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức: “Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Chú trọng thực hiện dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình”6. 
Trong hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước nói chung, xây dựng, hoàn thiện pháp luật nói riêng phải đề cao quyền con người, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”7, “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn”8.
Hoạt động của các cơ quan hành pháp, tư pháp có tác động trực tiếp tới quyền con người, quyền công dân. Nhận thức rõ điều này, các văn kiện xác định rõ yêu cầu: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”9, đồng thời: “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…”10. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, cả Hiến pháp năm 2013 và các văn kiện Đại hội XIII tuy có cách thể hiện khác nhau nhưng đều lấy bảo đảm, thúc đẩy quyền con người làm trọng tâm trong thể hiện, nhấn mạnh.
2.3. Về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 
Đại hội XIII dành sự quan tâm lớn định hướng phát triển kinh tế khu vực phi nhà nước, vừa tạo công ăn việc làm, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh và thúc đẩy kinh tế phát triển: “Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 - 65%”11. Không dừng lại ở đó, các văn kiện còn khẳng định trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước phải: “Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh”12. 
Khoản 1, Điều 32 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Để quyền này được thực thi trong thực tiễn, Văn kiện Đại hội XIII đặt ra nhiệm vụ: Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh. Cũng nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh, các văn kiện Đại hội đề cao nhiệm vụ: “Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu”13.
Với sự ghi nhận của Hiến pháp năm 2013, an sinh xã hội trở thành quyền hiến định của công dân và bảo đảm quyền này trước hết thuộc nghĩa vụ của Nhà nước. Trên tinh thần này, các văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế” . Quyền an sinh xã hội được nhìn nhận là một tập hợp các quyền, nên việc bảo đảm quyền này phải được thực hiện trên các mặt khác nhau của cuộc sống. Chính vì vậy, các văn kiện còn chỉ rõ: “Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người dân”15.
Sức khỏe của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, được Nhà nước, pháp luật bảo hộ. Văn kiện Đại hội chú trọng bảo vệ, nâng cao sức khỏe mọi người, trong đó đề cao việc nâng cao chất lượng xây dựng, thực hiện hiệu quả các chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm và nhấn mạnh: “Bảo đảm toàn dân đều được quản lý, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe”16. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, các văn kiện Đại hội đặt ra yêu cầu: “Đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, thực hiện bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, phấn đấu trên 95% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo vệ sức khỏe”17. Ghi nhận quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe là quan trọng nhưng quan trọng hơn là thực hiện quyền này trong thực tiễn mà điển hình là quyết tâm phòng chống đại dịch COVID-19 của Việt Nam thời gian qua cho thấy rõ hơn điều này.
Giáo dục, đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển đất nước. Trong từng giai đoạn, Đảng đều quan tâm sát sao đến chấn hưng giáo dục. Các quan điểm của Đảng qua từng thời kỳ “không chỉ thể hiện sự phát triển về tư duy, nhận thức, kế thừa chủ trương nhất quán của Đảng ta qua các giai đoạn lịch sử, coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mà còn là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám sát xu thế phát triển của nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”18. Giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc nhấn mạnh việc đổi mới giáo dục, đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, Đảng ta thể hiện rõ quyết tâm bảo đảm quyền học tập của mọi người: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân có cơ hội được thụ hưởng công bằng thành quả của nền giáo dục”19. Việt Nam là quốc gia được quốc tế đánh giá cao về thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có phổ cập giáo dục tiểu học. Không dừng lại ở kết quả này, Văn kiện Đại hội XIII còn đặt ra trọng trách: “Xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở”20.
Quyền về văn hóa được ghi nhận tại Điều 41 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Cụ thể hóa quy định này, các văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”21. Văn kiện Đại hội còn nhấn mạnh thêm: “bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ thuật”22.
Thay cho lời kết
Quyền con người luôn là yếu tố động, mặc dù không xuất hiện cùng với sự  xuất hiện của con người nhưng luôn vận động và phát triển trong dòng chảy chung của sự phát triển xã hội loài người. Đối với mỗi quốc gia dân tộc, bên cạnh việc phát triển theo xu hướng tất yếu chung của nhân loại, đều có con đường đi riêng trong bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Ở Việt Nam, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”23 thể hiện tư tưởng coi trọng giá trị quyền con người, được Đảng, Nhà nước dành sự quan tâm to lớn phấn đấu thực hiện “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”24. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ chăm lo đến hạnh phúc của Nhân dân, nỗ lực phấn đấu vì quyền con người, quyền công dân. Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định tiếp tục đề cao nhiệm vụ tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013.

PGS.TS. Hoàng Hùng Hải

Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý đào tạo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 2/2022

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/ truy cập ngày 28/5/2021.
(2) Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 153 -154.
(3) Tài liệu trên, Tập I, tr. 162.
(4) Tài liệu trên, Tập I tr. 100.
(5) Tài liệu  trên, Tập I, tr. 71.
(6) Tài liệu trên, Tập I, tr. 71.
(7) Tài liệu trên, Tập I, tr. 175
(8) Tài liệu trên, Tập I,tr. 175-176
(9) Tài liệu trên, Tập I, tr. 176
(10) Tài liệu trên, Tập I, tr. 177.
(11) Tài liệu trên, Tập I, tr. 240.
(12) Tài liệu trên, Tập I, tr. 223.
(13) Tài liệu trên, Tập I, tr. 224.
(14) Tài liệu trên, Tập I,  tr. 150.
(15) Tài liệu trên, Tập I,tr. 47-48. 
(16) Tài liệu trên, Tập I, tr. 151.
(17) Tài liệu trên, Tập I, tr. 266
(18) Hội đồng Lý luận Trung ương, Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 143.
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I,  Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,- 2021, tr. 137.
(20) Tài liệu trên,Tập I, tr. 138.
(21) Tài liệu trên, Tập I, tr. 263-264
(22) Tài liệu trên, Tập I, tr. 145.
(23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập. 8, tr. 276.
(24) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr. 51.