Thúc đẩy sự phát triển vì con người, do con người, lấy con người làm trung tâm là chủ trương nhất quán trong quá trình phát triển của Việt Nam. Qua hơn 35 năm Đổi mới, cùng với thành tựu to lớn về phát triển con người Việt Nam, vẫn còn không ít khiếm khuyết trong bảo đảm an ninh con người. Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục quán triệt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của mọi hoạt động, và bảo đảm an ninh con người là nền tảng cho sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển đất nước cường thịnh, trường tồn.
1. Khái niệm an ninh con người
Khái niệm “an ninh con người” (tiếng Anh - human security) tuy mới xuất hiện vào thập niên 90 của thế kỷ XX, nhưng đã chiếm một vị trí quan trọng trong bốn lĩnh vực an ninh chủ yếu cùng với an ninh quốc gia, an ninh công cộng và an ninh phi truyền thống.1 Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) lần đầu tiên đưa cụm từ “an ninh con người” vào Báo cáo Phát triển Con người năm 1994. Báo cáo định nghĩa an ninh con người là “sự an toàn trước các mối đe dọa kinh niên như đói kém, bệnh tật và áp bức; bảo vệ khỏi sự gián đoạn đột ngột và gây tổn hại trong cuộc sống hàng ngày, cho dù tại nơi làm việc, ở nhà hay trong các cộng đồng”. Báo cáo cũng chỉ rõ, an ninh con người được hình thành từ bảy thành tố cơ bản, bao gồm: (i) an ninh kinh tế; (ii) an ninh lương thực; (iii) an ninh y tế; (iv) an ninh môi trường; (v) an ninh cá nhân; (vi) an ninh cộng đồng; (vii) an ninh chính trị.
Bảy thành tố cấu thành nêu trên thể hiện khá toàn diện các khía cạnh, quy mô và cấp độ của an ninh con người. Thực tế cho thấy, đây cũng chính là các lĩnh vực tập trung hầu hết các mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển bền vững của cá nhân con người. Cách tiếp cận đa chiều này cho phép có cái nhìn hệ thống và đánh giá được tính chất, mức độ các mối đe dọa, để từ đó xây dựng cách thức ứng phó hiệu quả các nguy cơ đe dọa an ninh và phát triển bền vững của con người. Cho đến nay, khái niệm an ninh con người nêu trên đã được chấp nhận bởi nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia, từng bước trở thành công cụ hữu hiệu góp phần bảo vệ cuộc sống, phẩm giá và sự phát triển bền vững của con người.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “an ninh con người” lần đầu tiên được đề cập và ghi nhận trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nghị quyết Đại hội XII nêu ra sáu nhiệm vụ trọng tâm của đất nước, trong đó có nội dung “tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”.2 Đại hội XIII dự báo tình hình an ninh và phát triển của Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức trên nhiều phương diện, lĩnh vực: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp”. Tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán về sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, phát triển con người và bảo đảm an ninh con người, Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 nhấn mạnh: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”; “Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”.3
Có thể thấy, quan điểm nhất quán của Đảng trong việc xác định con người là chủ thể sáng tạo của phát triển xã hội, và đến lượt mình, quản lý phát triển xã hội đều vì hạnh phúc của con người, phục vụ con người. Vì thế, nhiệm vụ thứ tư trong sáu nhiệm vụ trọng tâm đã được Đại hội XIII xác định là “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội”.4 Điều này một lần nữa khẳng định rằng, Đại hội XIII đã đặt ưu tiên cao với các mục tiêu xã hội và mục tiêu phát triển con người, vì con người và do con người, lấy con người làm trung tâm của sự phát triển. Đây chính là một biểu hiện sinh động của đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với tiến trình lịch sử chung của nhân loại và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội XIII đã phát triển lên một tầm cao mới nhằm phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
Nguồn: daihoi13.dangcongsan.vn.
2. Những thách thức đối với việc bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam hiện nay
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã và đang tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít nguy cơ, thách thức trong tiến trình phát triển của quốc gia và bảo đảm an toàn của người dân. Đại hội XIII đã nhận diện: “Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa.5 Những thách thức trong việc bảo đảm an ninh con người thể hiện trên một số khía cạnh cụ thể như sau:
- An ninh kinh tế thường được hiểu là việc bảo đảm cho cá nhân có được mức thu nhập ổn định trước các mối đe dọa. Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam có nhiều chủ trương bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người. Đại hội XIII nhận định: “Mặc dù năm cuối nhiệm kỳ, đại dịch Covid-19 và thiên tai, bão lũ nghiêm trọng liên tiếp xảy ra ở các tỉnh miền Trung đã tác động nặng nề tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm (riêng năm 2020 đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD.6 Theo đó, mức sống của người dân từng bước được nâng lên. Năm 2021, tổng số hộ nghèo là 609.049 hộ, tỷ lệ 2,23%; tổng số hộ cận nghèo là 850.202 hộ và tỷ lệ 3,11%.7 Thành tựu về xoá đói giảm nghèo của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao.8 Chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ phận cán bộ công chức, viên chức, người lao động thấp; lương tối thiểu chưa đảm bảo đủ mức sống tối thiểu. Tỷ lệ người lao động làm các công việc không ổn định còn nhiều. Tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức còn cao, thiếu chế tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động ở khu vực này. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 đã làm tăng thêm tình trạng thất nghiệp, mất việc làm. Tính riêng quý III nãm 2021, cả nước còn hơn 28,2 triệu người từ 15 tuổi trở lên hứng chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19; trong đó, có 4,7 triệu người bị mất việc (chiếm 16,5%); 14,7 triệu người phải tạm nghỉ/tạm ngừng sản xuất kinh doanh (chiếm 51,1%); 12,0 triệu người bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên (chiếm 42,7%) và 18,9 triệu lao động bị giảm thu nhập (chiếm 67,2%).9 Rõ ràng, khủng hoảng dịch bệnh COVID-19 đang đặt ra thách thức mới trong thực hiện mục tiêu việc làm bền vững của đất nước.
- An ninh lương thực có thể hiểu là số lượng lương thực, thực phẩm có sẵn đủ để cung cấp mọi nhu cầu ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào, điều kiện và khả năng của người được cung cấp có thể tiếp nhận lương thực, thực phẩm mà không gặp khó khăn. Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc bảo đảm an ninh lương thực. Thực hiện Kết luận số 53-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 63/NQ-CP của Chính phủ về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và là quốc gia bền vững an ninh lương thực cao hơn nhiều quốc gia cùng trình độ phát triển ở châu Á.
Tuy vậy, tác động của biến đổi khí hậu tiếp tục đe dọa đến sản xuất lương thực trong nước. Việt Nam đứng trong top đầu về xuất khẩu nông sản, nhưng an ninh lương thực chỉ đứng thứ 57/113 quốc gia.10 Một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, kể cả một bộ phận công nhân, việc tiếp cận nguồn lương thực cơ bản vẫn còn khó khăn, chưa bảo đảm chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu quả và khỏe mạnh.
- An ninh y tế (sức khoẻ) thường được định nghĩa là sự bảo đảm cơ hội tiếp cận hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách và giải pháp nâng cao chất lượng và điều kiện chăm sóc y tế cho người dân. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển. Từng bước giải quyết được tình trạng quá tải bệnh viện truyến trên và tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; phát triển và nhân rộng mô hình bác sĩ gia đình. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tiếp, từ xa. Tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia bảo hiểm y tế hơn 88,8 triệu người, tăng 0,9% so với năm 2020, đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số.11
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các tuyến và giữa các vùng, miền. Kết cấu hạ tầng, trang thiết bị y tế một số nơi thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn. Công tác quản lý thuốc chữa bệnh còn lỏng lẻo, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm, nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bất cập. Quản lý nhà nước về hoạt động y tế tư nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 đã phản ánh khá rõ những yếu kém trong lĩnh vực y tế, mà đại án kit xét nghiệm Việt Á là một minh chứng rõ nét.
- An ninh môi trường thường được quan niệm là việc tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh, không khí sạch và đất đai không bị bạc màu; đồng thời, là sự an toàn của con người trước thiên tai và các sự cố môi trường. Trong những năm qua, hoạt động cung cấp nước sạch cho khu vực nông thôn được nhà nước hết sức quan tâm. Tính đến hết năm 2020, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt khoảng 57 triệu người (88,5%), trong đó tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế đạt khoảng 33 triệu người (51,7%) với 41,6% từ công trình cấp nước tập trung và 10% từ công trình cấp nước qui mô hộ gia đình.12
Bên cạnh đó, trên cơ sở xác định Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, những năm qua, Chính phủ đã chú trọng nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai nhằm góp phần chủ động phòng, chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, biến đổi khí hậu; triển khai thực hiện Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, chất lượng dự báo, nguồn lực và năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ngập úng ở một số thành phố lớn và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp. Thiên tai với các hiện tượng như bão lụt, lũ quét, hạn hán... liên tiếp xảy ra hàng năm trên phạm vi cả nước, gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư và hạ tầng cơ sở. Các vụ sạt lở đất trong thời gian gần đây tại nhà máy thuỷ điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế), huyện Hướng Hoá (Quảng Trị), xã Trà Leng - huyện Nam Trà My và xã Phước Lộc - huyện Phước Sơn (Quảng Nam)... đã cướp đi sinh mạng của hàng chục người dân, cán bộ, chiến sĩ.
- An ninh cá nhân thường được hiểu là việc bảo vệ an toàn cho cá nhân khỏi các hành vi bạo lực về thể chất và tinh thần. Hiện tại, các quyền, tự do an ninh cá nhân và các quyền riêng tư của con người đã được ghi nhận khá đầy đủ tại Chương 2 - Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và nhiều luật chuyên ngành khác. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ người dân khỏi các mối đe dọa hoặc xâm phạm an ninh con người.
Trên thực tế, tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn còn diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm giết người, tội phạm xâm phạm sở hữu, tội phạm mua bán người, tội phạm ma tuý, tội phạm công nghệ cao... Đặc biệt, bạo lực học đường và bạo lực gia đình có xu hướng gia tăng và trở thành vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Trong các đợt giãn cách xã hội do đại dịch COVID-19, số lượng các cuộc gọi phản ánh bạo lực gia đình tăng cao bất thường, trong đó phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và bạo hành là chủ yếu.
- An ninh cộng đồng hàm ý một trật tự xã hội và sự an toàn của các cộng đồng dân cư khỏi các mối đe doạ hoặc xung đột xã hội, cũng như cơ hội phát triển các giá trị cốt lõi của cộng đồng. Trên thực tế, an ninh cộng đồng có thể bị tác động bởi nhiều mối đe dọa khác nhau; đặc biệt, các hành vi tiêu cực (vi phạm pháp luật) do cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện với phương thức và thủ đoạn mới ảnh hưởng bất lợi đến cộng đồng xã hội. Nhận diện rõ những mối đe dọa này, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng “củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa vào dân, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”, “xử lý hài hoà các vấn đề dân tộc tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng”, “kịp thời trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, các băng nhóm tội phạm ma tuý, có vũ trang...”.13
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, số lượng các xung đột xã hội đang có xu hướng gia tăng một số vùng miền trong cả nước trên một vài lĩnh vực, và tính chất của các xung đột xã hội cũng phức tạp hơn. Điển hình như các xung đột diễn ra trong các lễ hội (đền Trần, đền Gióng...); những tranh chấp liên quan đến các cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo; xung đột giữa các cộng đồng dân cư với các công ty, doanh nghiệp hủy hoại môi trường; xung đột ở cấp độ gia đình giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em... Những xung đột này góp phần tạo ra sự bất an trong cuộc sống cộng đồng dân cư.
- An ninh chính trị được hiểu theo nghĩa con người phải được sống trong một môi trường chính trị - xã hội có sự tôn trọng về phẩm giá và quyền con người được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Nói cách khác, an ninh chính trị gắn liền với sự bảo đảm tôn trọng các yếu tố cơ bản của con người; đồng thời, nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước và công chức. Trong thời gian qua, trên cơ sở khuôn khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân, Chính phủ quán triệt các cơ quan công quyền phải tuân thủ tính công khai và minh bạch trong hoạt động quản lý, điều hành và cung ứng dịch vụ công; đồng thời, xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm người dân tương tác hiệu quả với cơ quan nhà nước thông qua các kênh tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: phát huy dân chủ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.14 Đây không chỉ là sự đúc kết từ thực tiễn thực hành dân chủ, mà còn là bước tiến mới trong nhận thức về kiểm soát đối với quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, một vài địa phương trong một số thời điểm vẫn để xảy ra tình trạng xung đột và điểm nóng chính trị, chẳng hạn các vụ xung đột tại các trạm thu phí BOT ở Cai Lậy - Tiền Giang, Khánh Hoà, Quảng Ninh...; các vụ ngăn xe chở rác vào bãi rác Nam Sơn (Sóc Sơn, Hà Nội), bãi rác Khánh Sơn (Đà Nẵng), bãi rác Tam Nghĩa và Tam Xuân (Núi Thành, Quảng Nam)...; xung đột trong lĩnh vực đất đai ở Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Hà Nội (vụ Đồng Tâm), Hải Phòng, Kon Tum, Sóc Trăng, An Giang...15 Bên cạnh đó, thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật vẫn còn nhiều bất cập; quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức.16
3. Một số kiến nghị về bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam hiện nay
Một là, đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận về an ninh xã hội, an ninh con người nhằm khắc phục khoảng trống trong nhận thức, cũng như những quan niệm chưa đúng đắn và đầy đủ về an ninh xã hội, an ninh con người của giới nghiên cứu và các chủ thể công quyền. Với hệ thống tri thức và phương pháp tiếp cận dựa trên an ninh xã hội và an ninh con người, quá trình hoạch định chính sách và thực thi pháp luật ở Việt Nam trong tương lai sẽ toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn; cho phép xử lý hài hoà giữa phát triển con người với phát triển đất nước, giữa an ninh cá nhân, an ninh xã hội với an ninh quốc gia. Từ đó, chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái hoặc lợi dụng an ninh xã hội, an ninh con người để can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia, kích động bạo loạn, xung đột xã hội. Theo đó, cần đưa chủ đề bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người thành một nội dung quan trọng trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước nhằm thay đổi nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức về quan điểm phát triển con người và an ninh xã hội, an ninh con người.
Hai là, chính sách phát triển kinh tế phải hướng đến mục tiêu tạo việc làm mới. Toàn cầu hoá kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đại dịch COVID-19 đã và đang đặt ra thách thức mới trong thực hiện mục tiêu việc làm bền vững. Vì thế, Chính phủ cần hoạch định các chính sách phù hợp nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, chú trọng kết hợp giữa tạo việc làm tại chỗ trong khu vực nông thôn với chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, nhất là quan tâm lực lượng công nhân làm việc trong các khu công nghiệp phía nam trở về quê trong giai đoạn dịch COVID-19 bùng phát; chú trọng tạo việc làm và trang bị kỹ năng - tay nghề cho sinh viên tốt nghiệp, phụ nữ, người khuyết tật và người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cải cách chế độ phân phối, điều chỉnh chính sách vùng miền, thành thị - nông thôn nhằm thu hẹp chênh lệch phát triển và bất bình đẳng giữa các vùng miền, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Ba là, hoạch định và thực thi các chính sách thích ứng với tình trạng già hoá dân số. Việt Nam đang đối diện với xu hướng già hoá dân số nhanh.17 Già hóa dân số sẽ làm cho gánh nặng kinh tế - xã hội trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ không chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thích ứng. Chính phủ cần sớm hoạch định các chiến lược, chính sách và chương trình về an ninh xã hội, an ninh con người có tính thực tế và khả thi cao, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và văn hoá của nước ta. Bài học kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, bên cạnh việc thực hiện lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, Chính phủ cần ban hành chính sách sử dụng người lao động cao tuổi, chính sách hỗ trợ người cao tuổi tìm việc làm, chính sách hỗ trợ cho chủ doanh nghiệp sử dụng lao động cao tuổi, chính sách hỗ trợ cho chủ doanh nghiệp là người cao tuổi, chính sách chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợ sinh hoạt cho người cao tuổi...
Bốn là, hoàn thiện hệ thống chính sách về bảo hiểm. Hiện nay, hệ thống chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp tạo ra một lưới an toàn nhiều tầng cho tất cả các thành viên và các nhóm xã hội, nhất là các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương khi bị suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập, khi gặp rủi ro, hoạn nạn, đau ốm, bệnh tật... Tuy nhiên, hệ thống chính sách bảo hiểm cũng đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập; đặc biệt là mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm chưa thật cao, đối tượng còn hẹp.18 Hướng đến một hệ thống bảo hiểm bền vững và thích ứng kịp thời với xu hướng già hóa dân số, diễn biến khó lường của thiên tai và dịch bệnh trong tương lai, cần đẩy nhanh tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội và lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, hướng tới đảm bảo tất cả người dân được khám bệnh, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế.
Chính phủ cần xây dựng và mở rộng hệ thống hưu trí tư nhân nhằm tạo ra sự bền vững về tài chính cho hệ thống hưu trí và người lao động. Trong bối cảnh số lượng người lao động tham gia bảo hiểm chưa cao và nhiều doanh nghiệp tìm nhiều cách không đóng hoặc nợ bảo hiểm xã hội của người lao động, Chính phủ cần ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện và giảm thuế cho hệ thống hưu trí tư nhân nhằm tăng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội; đồng thời, tăng mức chế tài và xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ nộp bảo hiểm cho người lao động.
Năm là, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành và chủ động ứng phó với thảm hoạ thiên nhiên. Thời gian qua, mặc dù Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm bảo vệ môi trường, nhưng chất lượng môi trường ở nhiều nơi xuống cấp, nhất là tại các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, lưu vực một số sông.19 Do vậy, trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phải hết sức quyết liệt trong việc tính toán tổng thể giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, chú trọng phòng hơn là xử lý. Trước mắt, cần có các giải pháp khả thi và hiệu quả nhằm ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên, khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường. Trung và dài hạn, phải kiên quyết và kiên trì bảo vệ an ninh môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
Việt Nam là một trong số ít quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thảm họa thiên nhiên, chẳng hạn biến đổi khí hậu, nước biển dâng… Chính phủ cần xây dựng khung pháp lý và các kịch bản cụ thể trong ứng phó thảm hoạ thiên nhiên, trong đó chú trọng huy động các nguồn lực, phối hợp nỗ lực của hệ thống chính quyền các cấp, các cộng đồng dân cư và tổ chức quốc tế để ứng phó kịp thời và hiệu quả các tình huống thảm hoạ.
Tóm lại, con người là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định sự thành công của các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, bảo đảm an ninh con người là nhiệm vụ quan trọng để thúc đẩy đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng và bền vững./.
TS. Võ Công Khôi
Học viện Chính trị Khu vực III
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2022
-----
Tài liệu trích dẫn
(1) TS. Đặng Xuân Thanh và TS. Đào Thị Minh Hương (2016), Đảm bảo an ninh con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.32.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.219.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.116, 117 & 147, 148.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, tlđd, tr.202.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, tlđd, tr.85-86.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, tlđd, tr.65-66.
(7) Quyết định số 125/QĐ-LĐTBXH (ngày 22/2/2022) công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.80 & 120.
(9) Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và đầu tư: Báo cáo tác động của đại dịch COVID-19 đến tình hình lao động, việc làm quý III năm 2021.
(10) Nguồn [online] https://thesaigontimes.vn/an-ninh-luong-thuc-khong-phai-chi-la-so-luong-lua-gao/, truy cập ngày 08/3/2022.
(11) 10 sự kiện nổi bật năm 2021 của ngành BHXH Việt Nam, https://baohiemxahoi.gov.vn/, truy cập ngày 08/3/2022.
(12) Nguồn [online] https://laodongthudo.vn/den-bao-gio-100-nguoi-dan-nong-thon-duoc-dung-nuoc-sach-128935.html, truy cập ngày 08/3/2022.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.280-281.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.173.
(15) Nguồn [online]
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.89.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam, tlđd, tr.108.
(18) Theo Cổng thông tin Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia bảo hiểm xã hội là hơn 16,5 triệu người, đạt 33,75% lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp gần 13,4 triệu người, đạt 27,33% lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm y tế hơn 88,8 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số.
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.212.